CHI CỤC CHĂN NUÔI THÚ Y BÌNH ĐỊNH

Tình hình chăn nuôi cả nước tháng 6 năm 2024

CNTY Bình Định - 09/07/2024 1822 lượt xem

TÌNH HÌNH CHUNG

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, mặc dù điều kiện thời tiết không thuận lợi nhưng sản xuất nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2024 vẫn đạt kết quả ổn định. Chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh trên đàn vật nuôi tuy có xu hướng lan rộng nhưng vẫn được kiểm soát, sản lượng thịt lợn và gia cầm xuất chuồng tăng khá so với cùng kỳ. Chăn nuôi trâu, bò trong sáu tháng đầu năm 2024 có xu hướng giảm. Chăn nuôi lợn và gia cầm phát triển tốt, dịch bệnh được kiểm soát. Đàn lợn có xu hướng tăng mạnh trở lại do chăn nuôi nông hộ chuyển mạnh sang bán công nghiệp, liên kết với doanh nghiệp; chăn nuôi trang trại theo chuỗi kết hợp an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh và ứng dụng công nghệ tiên tiến, giá thịt lợn hơi ở mức cao.

Nhiều mô hình nông nghiệp sinh thái, xanh, hữu cơ có hiệu quả kinh tế được phát triển; hình thành các chuỗi giá trị liên kết, ngành hàng, bao gồm các chuỗi: Doanh nghiệp – trại chăn nuôi, doanh nghiệp – HTX – nông hộ để giảm chi phí, tăng hiệu quả và giá trị gia tăng, trong đó ưu tiên phát triển chăn nuôi bền vững theo hướng hữu cơ, an toàn sinh học, như: Tập Đoàn Quế Lâm hợp tác liên kết triển khai một số mô hình khuyến nông chăn nuôi lợn theo hướng hữu cơ với hình thức là liên kết theo chuỗi giá trị tại Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Thái nguyên…; mô hình trang trại sinh thái khép kín ứng dụng công nghệ cao Phước An ở huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk… cả nước có 17 tỉnh, thành phố có mô hình chăn nuôi lợn hữu cơ với quy mô nuôi trên 75 nghìn con; sản lượng thịt hơi gần 7.000 tấn.

Khu vực doanh nghiệp và chuỗi liên kết sản xuất có xu hướng ổn định và mở rộng sản xuất khi giá sản phẩm đầu ra tăng; chăn nuôi hộ gia đình gặp khó khăn khi dịch tả lợn châu Phi đang diễn biến phức tạp ở nhiều địa phương. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 6 năm 2024 đạt 25.549,2 nghìn con, tăng khoảng 2,9% so với cùng thời điểm năm 2023; đàn gia cầm tiếp tục phát triển ổn định do công tác tiêm phòng dịch bệnh tốt nên không có dịch bệnh lớn xảy ra. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước tại thời điểm cuối tháng 6 đạt 562.763,2 nghìn con, tăng khoảng 2,3% so với cùng thời điểm năm 2023.

Theo kết quả khảo sát xu hướng chăn nuôi kỳ 01/4/2024 của gần 26,3 nghìn hộ nuôi lợn trên toàn quốc cho thấy: 3,07% số hộ dự kiến mở rộng sản xuất, 88,10% số hộ dự kiến ổn định sản xuất trong thời gian tới, 5,80% số hộ thu hẹp sản xuất, 3,03% số hộ không nuôi lợn nữa.

– Chăn nuôi trâu, bò: 

Chăn nuôi trâu, bò: Tình hình chăn nuôi trâu, bò trên cả nước trong 6 tháng đầu năm 2024 có xu hướng giảm tổng đàn do hiệu quả kinh tế không cao, chu kỳ sản xuất dài, đặc biệt với hình thức nuôi thả rông, dễ gặp rủi ro do nguồn thức ăn, nước uống không đảm bảo và dễ bị nhiễm bệnh. Người chăn nuôi và chính quyền địa phương cần tiếp tục thực hiện các biện pháp kiểm soát, phòng chống dịch bệnh để bảo vệ đàn vật nuôi. Ước tính tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Sáu năm 2024 giảm khoảng 3,9%, tổng số bò giảm khoảng 0,9% so với cùng thời điểm năm 2023, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước đạt 62,1 nghìn tấn, tương đương so cùng kỳ (quý II ước đạt 29,2 nghìn tấn, giảm 0,1%); sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước đạt 255,9 nghìn tấn, tăng 1,1% (quý II ước đạt 123,5 nghìn tấn, tăng 0,8%); sản lượng sữa bò tươi 6 tháng đầu năm ước đạt 642,6 nghìn tấn, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm 2023 (quý II ước đạt 311,3 nghìn tấn, tăng 5,4%).

– Chăn nuôi lợn:

Trong quý 6 tháng đầu năm, giá thịt lợn hơi có xu hướng tăng. Tuy nhiên, hiện nay dịch tả lợn châu Phi đang diễn biến phức tạp tại nhiều địa phương khiến tình hình chăn nuôi không ổn định, vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt với khu vực hộ gia đình. Tính đến ngày 22/6, giá thịt lợn hơi cả nước dao động trong khoảng 63.000 – 69.000 đồng/kg, thay đổi tùy từng địa phương. Khu vực doanh nghiệp và chuỗi liên kết sản xuất có xu hướng ổn định và mở rộng sản xuất khi giá sản phẩm đầu ra tăng. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Sáu năm 2024 tăng khoảng 2,9% so với cùng thời điểm năm 2023; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước đạt 2535,8 nghìn tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm 2023 (quý II ước đạt 1241,9 nghìn tấn, tăng 5,6%).

– Chăn nuôi gia cầm:

Nhìn chung đàn gia cầm cả nước phát triển ổn định trong 6 tháng đầu năm, khu vực doanh nghiệp phát triển tốt, dịch bệnh được kiểm soát, chỉ phát sinh một số ổ dịch nhỏ lẻ. Tuy vậy, người chăn nuôi vẫn cần theo dõi sát tình hình thị trường, các cơ quan chức năng cần cung cấp thông tin kịp thời, kiểm soát tình hình chăn nuôi tại địa phương, không nên tăng đàn ồ ạt để dẫn tới tình trạng dư thừa nguồn cung, giá bán giảm sâu gây thua lỗ. Chính quyền địa phương và người chăn nuôi tiếp tục phát huy, nâng cao trách nhiệm để phòng chống dịch cúm gia cầm và xử lý dịch hiệu quả khi mới phát sinh để giảm nguy cơ bùng phát dịch ở diện rộng. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Sáu năm 2024 tăng khoảng 2,3% so với cùng thời điểm năm 2023; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước đạt 1211,1 nghìn tấn, tăng 4,8% (quý II ước đạt 617,5 nghìn tấn, tăng 4,5%); sản lượng trứng gia cầm 6 tháng đầu năm ước đạt 10,1 tỷ quả, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2023 (quý II ước đạt 5,0 tỷ quả, tăng 5,0%).

– Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi: 

Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm 2024 ước đạt 45,3 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2024 đạt gần 240 triệu USD, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 64,2 triệu USD, giảm 2,4%; xuất khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 82,4 triệu USD, tăng 20,5%.

– Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi: 

Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm 2024 ước đạt 311,4 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2024 đạt 1,74 tỷ USD, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 523,4 triệu USD, giảm 14,5%; giá trị nhập khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 751,6 triệu USD, tăng 18,6%.

– Giá trị nhập khẩu sản phẩm thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu:

Giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 6 năm 2024 ước đạt 500 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 6 tháng đầu năm 2024 đạt 2,63 tỷ USD, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm 2023.

Trong 5 tháng đầu năm 2024, Việt Nam nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chủ yếu từ các thị trường: Áchentina (chiếm 25,6% thị phần), Hoa Kỳ (23,2%) và Braxin (14,7%). So với cùng kỳ năm 2023, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu của Việt Nam từ thị trường Áchentina tăng 13,8%; Hoa Kỳ tăng 75,8% và thị trường Braxin tăng 35,6%.

– Thú y: Theo báo cáo của Cục Thú Y, tính đến ngày 23/6/2024 tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm cả nước cụ thể như sau:

+ Bệnh Cúm gia cầm: Hiện nay, cả nước không có ổ dịch bệnh CGC chưa qua 21 ngày.

Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi: Hiện nay, cả nước có 287 ổ dịch thuộc 66 huyện của 23 tỉnh, thành phố chưa qua 21 ngày. Số lợn mắc bệnh là 20.765 con, số lợn chết và tiêu hủy là 20.853 con.

Bệnh Lở mồm long móng: Hiện nay, cả nước có 02 ổ dịch tại tỉnh Yên Bái và Gia Lai chưa qua 21 ngày. Số gia súc mắc bệnh là 202 con, số gia súc chết và tiêu hủy là 22 con.

Bệnh Viêm da nổi cục: Hiện nay, cả nước có 05 ổ dịch bệnh VDNC tại 04 huyện của các tỉnh Bắc Kạn và Đắk Nông chưa qua 21 ngày. Số gia súc mắc bệnh là 60 con, số gia súc chết và tiêu hủy là 02 con.

Bệnh Tai xanh: Hiện nay, cả nước không có ổ dịch bệnh Tai xanh tại các địa phương.

THỊ TRƯỜNG CHĂN NUÔI

Nhìn chung thị trường trong nước không có biến động lớn, nguồn cung các mặt hàng thiết yếu luôn đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng, giá các mặt hàng nông sản tương đối bình ổn, riêng mặt hàng thịt lợn, do ảnh hưởng từ dịch tả lợn Châu Phi đang lây lan tại một số địa phương, nhiều hộ kinh doanh nhỏ lẻ không tái đàn đã ảnh hưởng đến nguồn cung nên giá lợn hơi và thịt lợn tăng tại một số khu vực.

Giá thịt lợn hơi trên cả nước bình quân tháng 6/2024 vẫn tiếp theo xu hướng tăng. Giá thu mua của thương lái dao động từ 62.000 – 69.000 đồng/kg, cụ thể: Tại khu vực miền Bắc, giá lợn hơi tại các tỉnh Hưng Yên, Nam Định tăng từ 1.500 đồng – 2.900 đồng/kg bình quân ở mức 62.500 đồng/kg (tại Nam Định) và 66.500 đồng/kg (tại Hưng Yên).

Tại khu vực miền Trung – Tây Nguyên, giá lợn hơi dao động trong khoảng 63.000 đồng – 68.000 đồng/kg. Tại Bình Định, giá lợn hơi thu mua dao động 63.000 đồng/kg, các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi giá thu mua bình quân ở mức 64.000 đồng/kg. Tại Đắk Lắk, Hà Tĩnh, Thanh Hóa và Lâm Đồng lần lượt giá thu mua lợn hơi tại mức 65.000 đồng/kg, 66.000 đồng/kg, 67.000 đồng/kg và 68.000 đồng/kg.

Tại miền Nam, giá thu mua lơn hơi dao động từ 62.000 đồng – 69.000 đồng/kg. Cụ thể, tại Tiền Giang, Bạc Liêu, An Giang, Vĩnh Long, Đồng Nai, giá thu mua lần lượt 62.462đồng/kg; 63.333 đồng/kg; 65.667 đồng/kg; 67.333 đồng/kg và 69.000 đồng/kg (mức tăng từ 2.900 đồng-5.200 đồng/kg so với tháng 5/2024).

Giá thu mua thịt bò hơi ở tỉnh Đồng Nai giao dịch 75.500 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg so với tháng trước, giá thu mua thịt bò hơi tại Vĩnh Long vẫn ổn định ở mức 86.000 đồng/kg

Giá gà công nghiệp tại các tỉnh miền Bắc tháng 6/2024, giảm so với tháng trước, bình quân dao động trong khoảng 29.000-32.000 đồng/kg (loại 3,5kg/con).

Đối với gà lông màu, giá dao động 37.000-40.000 đồng/kg, gà ta lai CP 70 ngày dao dịch ở mức 34.000 đồng/kg (mua xô). Giá thu mua gà công ty 100-105 ngày, cũng có xu hướng giảm nhẹ, trong khoảng 47.000-50.000 đồng/kg. Tại miền nam, giá gà công nghiệp dao động ở mức từ 28.000 – 34.000 đồng/kg. Cụ thể: Tại Vĩnh Long ở mức 34.000 đồng/kg (tăng 667 đồng/kg so với tháng 5/2024), tại Đồng Nai là 28.750 đồng/kg (tăng 150 đồng/kg so với tháng trước). Đối với gà lông màu, giá thu mua tại Đồng Nai dao động 48.000 đồng/kg (tăng 1.600 đồng/kg so với tháng trước)

Tại sàn giao dịch Chicago Mercantile Exchange (CME), trong tháng 6/2024, giá đóng cửa mặt hàng thịt lợn giao kỳ hạn dao động trong khoảng 91,2 US cent/lb đến 95,4 US cent/lb và đạt mức bình quân 92,6 US cent/lb, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2023. Trong giai đoạn 6 tháng đầu năm 2024, giá mặt hàng thịt lợn giao dịch trên sàn CME đạt mức thấp nhất 65,3 US cent/lb, cao nhất 98,6 US cent/lb và đạt mức bình quân 85,8 US cent/lb, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2023.

Trong tháng 6/2024, giá đóng cửa mặt hàng bò sống giao kỳ hạn trên sàn CME dao động trong khoảng 181,8 US cent/lb đến 187,1 US cent/lb và đạt mức bình quân 183,9 US cent/lb, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2023. Trong giai đoạn 6 tháng đầu năm 2024, giá mặt hàng bò sống giao dịch trên sàn CME đạt mức thấp nhất 169,9 US cent/lb, cao nhất 189,9 US cent/lb và đạt mức bình quân 181,3 US cent/lb, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước.

Giá một số nguyên liệu thức ăn chăn nuôi chính tại thời điểm tháng 6/2024 vẫn tiếp đà tăng nhẹ so với tháng trước, cụ thể: Tại Bình Phước, giá cám gạo giao dịch 11.600 đồng/kg, tăng 736 đồng/kg, giá cám HV 16.533 đồng/kg (+251 đồng/kg); giá cám Cargill 15.500 đồng/kg (+318 đồng/kg). Giá các loại ngô hạt vẫn giữ nguyên so với tháng trước, dao động từ 6.680 đồng – 10.083 đồng/kg; cụ thể, giá ngô hạt thường tại Bình Phước giao dịch 10.083 đồng/kg (giảm 417 đồng/kg), giá ngô hạt giống địa phương tại Đồng Nai 6.680 đồng/kg, giá ngô hạt tại Hưng Yên 7.000 đồng/kg; giá ngô bột, bình quân ở mức 10.500 đồng/kg (+209 đồng/kg). Giá các loại thức ăn hỗn hợp cho cá và cho lợn không có biến động so với tháng trước, dao động từ 8.000-15.000 đồng/kg (đối với thức ăn cho heo) và từ 9.000-14.000 đồng/kg (đối với thức ăn cho tôm, cá).

Tại thị trường thế giới, theo Reuters, giá đóng cửa mặt hàng đậu tương giao kỳ hạn trên sàn giao dịch Chicago Board of Trade (CBOT) trong tháng 6/202415 dao động trong khoảng 11,58 USD/Bu đến 12 USD/Bu và đạt mức bình quân 11,8 USD/Bu, giảm 17,5% so với tháng 6/2023. Giá đóng cửa mặt hàng ngô giao kỳ hạn trên sàn CBOT trong tháng 6/202416 dao động trong khoảng 4,39 USD/Bu đến 4,59 USD/Bu và đạt mức bình quân 4,49 USD/Bu, giảm 27,1% so với tháng 6/2023.

Theo https://channuoivietnam.com