Tình hình chăn nuôi cả nước tháng 5 năm 2024
TÌNH HÌNH CHUNG
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trong tháng 5/2024 diễn ra trong điều kiện thời tiết thuận lợi; giá bán các sản phẩm nông lâm thủy sản chủ lực vẫn tiếp đà tăng cao do thị trường trong nước và xuất khẩu vẫn cơ bản ổn định, nên người sản xuất có lợi nhuận, đầu tư vào sản xuất; sản lượng các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản chủ yếu thu hoạch trong kỳ tăng khá so với cùng kỳ năm trước.
Đàn lợn có xu hướng tăng do thị trường tiêu thụ khá ổn định, giá bán tăng, tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 5 năm 2024 tăng khoảng 3,8% so với cùng thời điểm năm 2023; đàn gia cầm tiếp tục phát triển ổn định, do công tác tiêm phòng dịch bệnh tốt nên không có dịch bệnh lớn xảy ra. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước tại thời điểm cuối tháng 5 tăng khoảng 3,3% so với cùng thời điểm năm 2023.
Đàn trâu, bò có xu hướng giảm nhẹ do hiệu quả kinh tế thấp. Đàn lợn có xu hướng tăng do thị trường tiêu thụ khá ổn định, thêm vào đó là giá bán tăng, tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ. Đàn gia cầm tiếp tục phát triển mạnh, do hiện tại chăn nuôi gia cầm đem lại hiệu quả kinh tế cao, chi phí đầu vào thấp vì có thể tận dụng nguồn thức ăn sẵn có.
– Chăn nuôi trâu, bò: Theo Tổng cục Thống kê ước tính tổng số trâu của cả nước tính đến tháng 5 năm 2024 giảm khoảng 3,9%, tổng số bò giảm khoảng 0,8% so với cùng thời điểm năm 2023. Nguyên nhân đàn trâu, bò giảm vì diện tích chăn thả bị thu hẹp do chuyển đổi đất thổ cư, trồng rừng và trồng các loại cây công nghiệp; đồng thời nhu cầu sử dụng sức kéo phục vụ sản xuất nông nghiệp giảm và hiệu quả kinh tế mang lại không cao.
– Chăn nuôi lợn: Tổng đàn lợn ước tính cho cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 5 năm 2024 tăng khoảng 3,8%. Đàn lợn có xu hướng tăng mạnh trở lại do chăn nuôi nông hộ chuyển mạnh sang bán công nghiệp, liên kết với doanh nghiệp; chăn nuôi trang trại theo chuỗi kết hợp an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh và ứng dụng công nghệ tiến tiến gia tăng nên mang lại hiệu quả cao trong chăn nuôi lợn. Đồng thời, với công tác phòng, chống và kiểm soát dịch bệnh tốt nên người dân tích cực tái đàn và đẩy mạnh phát triển đàn lợn.
– Chăn nuôi gia cầm: Đàn gia cầm tiếp tục phát triển mạnh do hiện tại chăn nuôi gia cầm đem lại hiệu quả kinh tế cao mà chi phí đầu vào thấp vì có thể tận dụng nguồn thức ăn sẵn có. Cùng với nhu cầu tiêu dùng trên thị trường luôn ổn định và tăng mạnh vào các dịp nghỉ Lễ nên người dân mạnh dạn tăng số đầu con và mở rộng quy mô. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước tháng 5 năm 2024 tăng khoảng 3,3% so với cùng thời điểm năm 2023.
– Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi: Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 5 năm 2024 ước đạt 45,8 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 5 tháng đầu năm 2024 đạt 199 triệu USD, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 56,4 triệu USD, tăng 4%; xuất khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 61,8 triệu USD, tăng 10,2%.
– Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi: Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 5 năm 2024 ước đạt 311 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 5 tháng đầu năm 2024 đạt 1,42 tỷ USD, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 439 triệu USD, giảm 15,3%; giá trị nhập khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 614 triệu USD, tăng 19,6%.
– Thú y: Theo báo cáo của Cục Thú y, tính đến ngày 22/5/2024, tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm trên cả nước cụ thể như sau:
– Dịch cúm gia cầm: Trong tháng 05/2024, không có báo cáo ổ dịch CGC mới phát sinh tại các địa phương. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 07 ổ dịch A/H5N1 tại 07 tỉnh, thành phố, số gia cầm mắc bệnh là 11.569 con, số chết và tiêu hủy là 12.424 con (số ổ dịch giảm 36% so với cùng kỳ năm trước (CKNT). Hiện nay, cả nước không có ổ dịch CGC chưa qua 21 ngày tại các địa phương.
– Dịch lợn tai xanh: Trong tháng 05/2024, không có báo cáo phát sinh ổ dịch bệnh Tai xanh tại các địa phương. Từ đầu năm đến nay, cả nước chưa xảy ra dịch bệnh Tai xanh.
– Dịch lở mồm long móng(LMLM): Trong tháng 05/2024, có báo cáo phát sinh 01 ổ dịch LMLM tại xã Đak Jơ Ta, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai; số trâu, bò mắc bệnh là 54 con, số chết và tiêu hủy là 03 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước đã xảy ra 42 ổ dịch LMLM tại 12 tỉnh, thành phố; số gia súc mắc bệnh là 1.269 con, số gia súc tiêu hủy là 106 con. Hiện nay, cả nước có 01 ổ dịch LMLM tại tỉnh Gia Lai chưa qua 21 ngày.
– Dịch tả lợn châu Phi: Trong tháng 05/2024, có báo cáo phát sinh 76 ổ dịch tại 17 tỉnh, thành phố; số lợn mắc bệnh là 1.306 con, số chết và tiêu hủy là 1.329 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 295 ổ dịch tại 37 tỉnh, thành phố; số lợn mắc bệnh là 9.560 con, số lợn chết và tiêu hủy là 10.051 con. Hiện nay, cả nước có 102 ổ dịch tại 50 huyện của 21 tỉnh, thành phố chưa qua 21 ngày. Số lợn mắc bệnh là 3.918 con, số lợn chết và tiêu hủy là 3.941 con.
– Bệnh viêm da nổi cục: Trong tháng 05/2024, cả nước phát sinh 02 ổ dịch tại tỉnh Quảng Bình và Lâm Đồng, số gia súc mắc bệnh là 02 con, số gia súc chết và tiêu hủy là 01 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 62 ổ dịch tại 07 tỉnh, thành phố; số gia súc mắc bệnh là 348 con, số gia súc chết và tiêu hủy là 90 con. Hiện nay, cả nước có 06 ổ dịch tại 03 tỉnh Quảng Bình, Quảng Ngãi và Lâm Đồng chưa qua 21 ngày.

THỊ TRƯỜNG CHĂN NUÔI
Thị trường lợn hơi trên cả nước tháng 5/2024 ghi nhận mức tăng so với tháng trước từ 3%-10% tùy từng tỉnh. Thương lái tại hầu hết các tỉnh đang giao dịch với giá trung bình từ 60.000 – 64.000 đồng/kg; cụ thể:
Tại khu vực miền Bắc, giá lợn hơi bình quân tại các tỉnh Hưng Yên, Nam Định giá thu mua bình quân lần lượt là 62.000 đồng/kg và 60.587 đồng/kg (mức tăng so với tháng 4/2024 lần lượt là 1.867 đồng/kg và 4.428 đồng/kg)
Tại khu vực miền Trung – Tây Nguyên cũng ghi nhận mức tăng như các tỉnh khu vực phía Bắc, bình quân dao động trong khoảng 63.000 – 64.000 đồng/kg, cụ thể, giá lợn hơi giao dịch tại Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Quảng Nam ở mức 64.000 đồng/kg. Các tỉnh Bình Định, Đắk Lắk và Lâm Đồng điều chỉnh giá thu mua trong khoảng 64.000 – 65.000 đồng/kg tùy khu vực.
Giá giao dịch lợn hơi ở khu vực miền Nam cũng tiếp đà tăng theo xu hướng chung của thị trường. Theo đó, giá lợn hơi hu mua tại các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, An Giang, Bạc Liêu, Vĩnh Long, giao dịch bình quân từ 60.000 – 63.000 đồng/kg
Giá thịt bò hơi tại các tỉnh phía Nam không có biến động so với tháng trước, giá thu mua thịt bò hơi ở tỉnh Đồng Nai giao dịch 75.000 đồng/kg, giảm 333 đồng/kg so với tháng trước, giá thu mua thịt bò hơi tại Vĩnh Long vẫn ổn định ở mức 86.000 đồng/kg
Giá gà công nghiệp tại các tỉnh miền Bắc tiếp tục đà tăng tốt, bình quân 33.000 đồng/kg, theo khảo sát giá cầm tại các chợ, giá gà lông trắng loại trên 3,5kg/con bán cao nhất đạt trên 36.000 đồng/kg. Đối với gà lông màu, nguồn cung nuôi dài ngày dồi dào khiến giá gà không có biến động so với tháng trước đó, phổ biến ở mức 40.000 đồng/kg (mua xô) với gà ta lai CP70 ngày và 48.000 đồng – 49.000 đồng đối với gà công ty nuôi 100 ngày .
Tại miền nam, theo nguồn tin cộng tác viên một số tỉnh, giá gà công nghiệp tăng từ 2.167 đồng/kg – 4.333 đồng/kg so với tháng trước, dao động ở mức từ 28.000 – 34.000 đồng/kg. Theo đó, giá gà công nghiệp thu mua tại tỉnh Vĩnh Long bình quân 34.333 đồng/kg (tăng 14,4% so với tháng 4/2024 và tăng 43% so với cùng kỳ tháng 5/2023), giá thu mua tại Đồng Nai 28.000 đồng/kg (tăng 2.167 đồng/kg so với tháng trước). Đối với gà lông màu, nguồn cung xuất chuồng hạn chế giúp gia tăng đầu vào và giữ được ngưỡng lợi nhuận khá, dao động bình quân 45.333 đồng/kg (tăng 4.333 đồng/kg so với tháng trước, tương ứng mức tăng 10,5%)
Giá thu mua trứng gà ta không có biến động so với tháng trước dao động 28.000 đồng/chục. Giá thu mua trứng gà công nghiệp tại tỉnh Đồng Nai bình quân 15.333 đồng/chục (giảm 667 đồng/chục so với tháng trước đó)
Trên thị trường thế giới, theo Reuters, giá đóng cửa mặt hàng thịt lợn giao kỳ hạn trên sàn giao dịch Chicago Mercantile Exchange (CME) trong tháng 5/2024 dao động trong khoảng 91,5 US cent/lb đến 98,4 US cent/lb và đạt mức bình quân 93,5 US cent/lb, tăng 17,1% so với tháng 5/2023. Giá đóng cửa mặt hàng bò sống giao kỳ hạn trên sàn CME trong tháng 5/2024 dao động trong khoảng 173,9 US cent/lb đến 181,1 US cent/lb và đạt mức bình quân 177,1 US cent/lb, tăng 7,6% so với tháng 5/2023. Bình quân 5 tháng đầu năm 2024, giá thịt lợn trên sàn giao dịch CME đạt 84,1 US cent/lb, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước; giá bò sống trên sàn CME đạt 180,8 US cent/kg, tăng 10%.
Giá một số nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong nước tháng 5 (tính đến trung tuần tháng 5) tăng nhẹ so với tháng trước, cụ thể: Tại Bình Phước, giá bán buôn cám gạo giao dịch 10.722 đồng/kg, tăng 1.365 đồng/kg, giá cám Cargill 15.111 đồng/kg (+711 đồng/kg). Giá bán buôn các loại ngô hạt giao động từ 6.500 đồng – 10.500 đồng/kg (mức tăng từ 283 đồng-500 đồng/kg) cụ thể, giá
ngô hạt thường tại Bình Phước giao dịch 10.500 đồng/kg, giá ngô hạt giống địa phương tại Đồng Nai 6.550 đồng/kg, giá ngô hạt tại Hưng Yên vẫn ổn định ở mức 7.000 đồng/kg; riêng đối với loại ngô bột, giá giao dịch tháng 5/2024 tăng 476 đồng/kg so với tháng 4, bình quân ở mức 10.333 đồng/kg. Giá các loại thức ăn hỗn hợp cho cá và cho lợn ổn định so với tháng trước.
Tại thị trường thế giới, theo Reuters, giá đóng cửa mặt hàng đậu tương giao kỳ hạn trên sàn giao dịch Chicago Board of Trade (CBOT) trong tháng 5/2024 dao động trong khoảng 11,6 USD/Bu đến 12,34 USD/Bu và đạt mức bình quân 12,07 USD/Bu, giảm 12,9% so với tháng 5/2023. Giá đóng cửa mặt hàng ngô giao kỳ hạn trên sàn CBOT trong tháng 5/202413 dao động trong khoảng 4,43 USD/Bu đến 4,63 USD/Bu và đạt mức bình quân 4,52 USD/Bu, giảm 25,7% so với tháng 5/2023.
Theo https://channuoivietnam.com