Những thử thách và giải pháp về dinh dưỡng và quản lý trong chăn nuôi heo không kháng sinh
Chương trình không kháng sinh đã được áp dụng khắp nơi trong nhiều năm. Một số chương trình đang rất thành công. Sự thành công hay thất bại của chương trình phụ thuộc vào việc ngăn chặn sự xâm nhập của mầm bệnh và cung cấp một chương trình dinh dưỡng tập trung vào việc nâng cao đường ruột và hệ miễn dịch. Trong khi nhiều nhà chăn nuôi không sử dụng kháng sinh trong khẩu phần heo vỗ béo và heo nái, thì việc khởi sự những heo mới cai sữa bằng cách phát triển hệ miễn dịch và thay đổi đường ruột có thể là một thách thức. Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành xem xét các phương pháp khác nhau để bắt đầu ngăn chặn những thách thức về đường ruột và khắc phục các tác nhân gây bệnh hệ thống ở heo. Mới đây, công việc cũng đang tập trung vào các thành phần bổ sung vào khẩu phần cả heo nái và heo thịt để cải thiện sức khỏe đường ruột và giảm thiểu sự lan truyền mầm bệnh. Mục đích của cuộc thảo luận hôm nay là tập trung vào các quy trình và chương trình dinh dưỡng để duy trì tốt sự tăng trưởng, năng suất sinh sản và sức khỏe vật nuôi khi sử dụng chương trình không kháng sinh.
Sử dụng kháng sinh trong ngành công nghiệp chăn nuôi đã được thực hành trong nhiều năm. Sự tiến triển của chăn nuôi không kháng sinh (ABF) đã được định hướng bởi người tiêu dùng và ngành y tế. Trong 20 năm qua, các cuộc thảo luận về vi sinh vật kháng kháng sinh trong các loại thuốc dùng trên người đã triển khai đến ngành chăn nuôi để giúp kiểm soát sự đề kháng tiềm năng của vi khuẩn mọi lúc trên tất cả các loài. Ngoài ra, nhóm người tiêu dùng mới đây cũng đã bắt đầu yêu cầu rằng thịt động vật không được cho ăn kháng sinh trong quá trình tăng trưởng của chúng bắt nguồn từ mối quan tâm bởi sức khỏe con người, hương vị, chất lượng và môi trường. Trong khi chúng ta thừa nhận rằng đối với quyền lợi động vật, sự can thiệp của thuốc kháng sinh cần có sẵn để giúp kiểm soát bệnh, nhiều nhà chăn nuôi đang làm việc hướng tới việc hoặc là tiếp tục giảm sử dụng kháng sinh hoặc nâng cao sự tăng trưởng vật nuôi của họ theo chương trình không sử dụng kháng sinh (ABF) để đáp ứng đòi hỏi của cộng đồng.
Định nghĩa “Phi kháng sinh”
Định nghĩa của phi kháng sinh/không kháng sinh (ABF) có nhiều kiểu giải thích khác nhau. Khi mà vật nuôi không thể đi đến giai đoạn thu hoạch nếu chúng không có thời gian rút khỏi kháng sinh thích hợp để giảm thiểu tiềm năng phát hiện dư lượng kháng sinh, có hai sự phân loại ABF hiện đang tồn tại. Sự phân loại đầu tiên sẽ là không được sử dụng kháng sinh sau khi heo con được cai sữa mẹ. Sự phân loại thứ hai được định nghĩa là loại “Mãi không bao giờ”. Mãi không bao giờ ám chỉ đến một thực tế là heo không sử dụng kháng sinh trong quá trình sống của chúng. Tại Hoa Kỳ ngày nay, cả hai sự phân loại ABF đều được sử dụng cho các thị trường khác nhau.
Ở Canada, trang web của Cơ quan Kiểm tra ực phẩm Canada (CFIA) nói: “để biểu hiện sự khẳng định ngày càng tăng về việc không sử dụng kháng sinh, động vật hoặc cá phải không được nhận kháng sinh từ khi sinh ra đến lúc thu hoạch. Ngoài ra, không được sử dụng kháng sinh cho mẹ của động vật đó ở điều đã nói đến trong bất kỳ cách nào đưa đến dư lượng kháng sinh trong cơ thể thú. Các vitamin và khoáng cung cấp cho thú có thể chỉ được cung cấp ở mức hoạt động sinh lý bổ sung vào khẩu phần, không nhằm cho tác dụng kháng khuẩn”
Định rõ chi phí của chăn nuôi không kháng sinh
Trong khi đã có một vài nghiên cứu được tiến hành cho thấy những tác động tiềm năng của chương trình ABF trong chăn nuôi, kết quả là khá biến thiên. eo Vansickle (2011), tiến sĩ Main đã chứng minh rằng chăn nuôi không sử dụng kháng sinh tại Hoa Kỳ có thể chi phí trung bình US$ 11/heo con và tăng cao lên US$ 15,50 xét về thực tế 70 % chuồng nuôi sẽ đi đến giai đoạn kết thúc mà không sử dụng kháng sinh.
Cứ cho rằng sức khỏe đàn gia súc và sự ổn định là những biến thiên chính trong chăn nuôi heo, chi phí cho chăn nuôi không kháng sinh (ABF) có khả năng biến thiên cao ngay cả trong một hệ thống. Một tỷ lệ hoàn thành chương trình 70 % có thể dễ dàng đạt được trong một số chuồng nuôi, nhưng một thách thức lớn trong những vấn đề khác. Vào năm 2008, một bài báo được xuất bản tại hôi nghị của Hiệp hội bác sĩ thú y heo Hoa Kỳ chứng minh rằng một cơ sở có thể đạt được năng suất sinh sản như nhau và có sự giảm tối thiểu về năng suất ở heo từ giai đoạn cai sữa đến giai đoạn kết thúc mà không sử dụng kháng sinh và protein động vật (Kohler và cộng sự, 2008). Với cơ hội để nắm bắt một phần thưởng ABF, các nhà chăn nuôi đã có thể chỉ có một sự gia tăng về chi phí sản xuất $ 0,32/đầu so với giá trị Châu Âu ước tính $5,24 tại thời điểm đó. Trong khi các dữ liệu chưa kết luận, thì những gì là kết luận là rằng sức khỏe ban đầu và chương trình vắc xin là chìa khóa để làm cho các chương trình trở nên hiệu quả.
Định rõ các vấn đề và giải pháp để tiến tới chăn nuôi không kháng sinh
Trong quá khứ, thuốc kháng sinh thường được sử dụng cho một trong ba mục đích: 1) để điều trị hoặc quản lý bệnh, 2) để ngăn ngừa bệnh, và 3) để cải thiện hiệu quả thức ăn.
Cho dù một hệ thống lựa chọn để áp dụng một chương trình không kháng sinh (ABF) hoặc tiếp tục sử dụng kháng sinh để kiểm soát bệnh đi nữa, thì điểm tập trung của tất cả các nhà chăn nuôi heo vẫn là giảm thiểu sử dụng kháng sinh và ngăn ngừa bệnh tật. Có bốn mặt chủ yếu liên quan đến thực hành tốt sức khỏe vật nuôi. Các mặt này bao gồm: chương trình sức khỏe, quản lý, di truyền, và dinh dưỡng.
Chương trình sức khỏe vật nuôi và thực tiễn quản lý đi song hành với nhau. Người chăm sóc vật nuôi phải thực hiện và tuân thủ chương trình sức khỏe một cách hiệu quả đã vạch ra bởi bác sĩ thú y. Bác sĩ thú y đàn gia súc sẽ thiết lập chiến lược vắc xin để giảm thiểu bệnh dịch xảy ra và phát triển chương trình vệ sinh môi trường để giảm sự lây lan bệnh (an toàn sinh học). Người chăm sóc vật nuôi phải cẩn thận làm theo các chương trình này cũng như thiết lập chương trình an toàn sinh học tốt và kiểm soát động vật gặm nhấm. Ngoài ra, người chăm sóc động vật cần đánh giá các cơ sở của thú và duy trì những cơ sở đó như một phần của sự duy trì và bảo dưỡng thường lệ. Sự thông thoáng cần được thiết lập theo giai đoạn nuôi để giảm các dòng khí trên heo nhỏ và cũng có thể giảm thiểu mùi phân có thể gây giảm năng suất. Sự chọn lọc về di truyền để giúp chịu được một loạt các thông số môi trường cũng sẽ cải thiện được sự thành công của một chương trình ABF.

Dinh dưỡng
Chương trình dinh dưỡng có thể có một tác động đáng kể trên năng suất heo. Ngoài ra, các thành phần khác với kháng sinh có thể được thêm vào khẩu phần để giúp kiểm soát hoặc giảm thiểu những thách thức sức khỏe tiềm năng khi heo phát triển. Để có hiệu quả trong việc phát triển một chương trình dinh dưỡng, các nhà dinh dưỡng cần phải tiếp xúc với người chăn nuôi hay bác sĩ thú y để tìm hiểu hơn nữa tình trạng sức khỏe của heo và cũng để nhận biết thời gian trong giai đoạn phát triển của heo con, nơi những thách thức sức khỏe có thể phát sinh. Trong khi có rất nhiều thành phần trên thị trường khẳng định là giúp cho sức khỏe đường ruột, tiêu hóa, hiệu quả thức ăn, và lượng ăn vào, thì việc hiểu biết về cơ chế hoạt động và kết quả mong đợi sẽ giúp cho quá trình quyết định của chuyên gia dinh dưỡng.
Lúc cai sữa, ruột của heo con phải đi qua những thay đổi đáng kể như chuyển tiếp heo con từ thức ăn lỏng sang thức ăn khô. Ngay cả trong các hệ thống duy trì cho ăn lỏng, sinh lý của ruột thay đổi để đáp ứng với quá trình cai sữa. Sự tập trung vào 3 tuần đầu sau cai sữa là chuyển heo nhanh chóng sang nguồn thức ăn mới của chúng và duy trì một hệ thống đưởng ruột và miễn dịch khỏe mạnh để giúp heo con chống lại bất kỳ tác nhân gây bệnh nào có thể có mặt khi rời khỏi kháng thể của mẹ.
Sức khỏe đường ruột đối với heo cai sữa là một lĩnh vực đã được nghiên cứu trong nhiều năm. Tuy nhiên, động lực học của miễn dịch đường ruột, enzyme đường ruột và tương tác của hệ vi sinh ruột cũng chưa được hiểu rõ. iết lập một quần thể lợi khuẩn đường ruột tốt hỗ trợ sự tiêu hóa và giảm vi khuẩn gây bệnh sẽ cân bằng được pH và các cơ chất. Sư sản xuất enzym chủ yếu là lactase trong khi các enzym carbohydrase khác sẽ tăng lên qua 8 tuần tuổi. Khẩu phần thức ăn chứa nhiều nguyên liệu kém tiêu hóa cho phép các chất dinh dưỡng quan trọng đi vào hệ vi sinh vật ruột, làm gia tăng tiềm năng vượt cao số lượng của mầm bệnh và gây ra bệnh. Cho ăn tinh bột có tính tiêu hóa cao trong khẩu phần ăn lúc còn non đã được chứng minh là cải thiện sức khỏe đường ruột. Ngoài ra, trong một loạt các nghiên cứu được thực hiện bởi Pettigrew và nhóm nghiên cứu của ông, các chiết xuất thực vật khác nhau cũng tỏ ra là có lợi trong việc cải thiện chiều dài nhung mao ruột và giảm vi khuẩn gây bệnh. Sử dụng men vi sinh probiotics để duy trì số lượng nhất định vi sinh vật cũng mang lại lợi ích. Ngoài ra, việc sử dụng các đường lactose để hạ thấp hơn độ pH và duy trì Lactobacilli cũng đã được chứng tỏ là có cải thiện năng suất heo.
Khi heo con đạt đến 6 tuần tuổi, kháng thể mẹ bắt đầu suy giảm và heo con tiến đến thời kỳ dễ bị những thách thức về sức khỏe. Song và cộng sự (2012) đã chứng minh rằng sử dụng kháng thể trứng có thể cải thiện sức khỏe chung trong những đàn heo con có tình trạng sức khỏe không rõ ràng. Trong khi năng suất tăng trưởng đã được biểu thị trong một số nghiên cứu là tương tự với huyết tương phun khô (Spray-Dried Plasma), SDP có thêm các lợi ích trong việc cải thiện chức năng miễn dịch (điều biến đại thực bào) và nút giao tế bào (Campbell và cộng sự, 2010).
Nhiều nhà chăn nuôi tập trung vào việc giảm thiểu tỷ lệ chết và hiệu quả thức ăn ở heo cuối giai đoạn vỗ béo. Một nghiên cứu gần đây đã báo cáo rằng enzym (ví dụ như xylanase) có tiềm năng cải thiện sức sống của heo từ 3,99 % đến 2,39 % và cải thiện tăng trọng:thức ăn từ 0.286 đến 0.290 bằng cách chuyển đổi arabinoxylans thành xylo-oligomers giúp nâng hệ vi sinh vật ruột sang hướng sinh vật có lợi (Zier-Rush, 2016). Ngoài ra, Greiner và cộng sự (năm 2016) đã chứng minh rằng cho heo ăn 150 ppm Cu bổ sung vào cuối giai đoạn vỗ béo thì cải thiện được tăng trọng:thức ăn là từ 0,31 đến 0,34. Đôi khi, thay đổi các thức ăn cũng có thể cải thiện được sức khỏe của heo khi đối mặt với thách thức về sức khỏe.
Trong nhiều năm, các nhóm y tế về con người đã thảo luận isoflavones và các thành phần có lợi khác của đậu nành. Dữ liệu từ Greiner và cộng sự (1999) và, Rochell và cộng sự (2015) đã chứng minh rằng cho heo ăn iso avones trực tiếp hoặc mức đậu nành cao hơn khi đối mặt với sự nhiễm trùng tai xanh (PRRS) có thể làm giảm sự tăng sinh của vi rút và cải thiện năng suất.
Trong khi nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng kháng sinh có thể cải thiện hiệu quả thức ăn, còn có những biến cải về cơ học, di truyền, môi trường và dinh dưỡng cũng có thể giúp cải thiện hiệu quả thức ăn. Ở Bảng 1, khi kích cỡ giảm từ 650 μm đến 350 μm, thì lượng ăn vào hàng ngày trung bình của giai đoạn vỗ béo giảm xuống và tăng trọng:thức ăn tăng lên. ức ăn viên mang lại sự cải thiện tăng trọng ngày bình quân
Tuy nhiên, bắp (ngô) dạng viên 350μm so với bắp 650 μm cho thấy không có lợi ích nào thêm (Nemechek và cộng sự, 2016). Các nghiên cứu khác đã chứng minh có sự cải thiện trung bình 4 – 8 % về cả tăng trọng ngày bình quân và hiệu quả thức ăn khi khẩu phần thức ăn được ép viên ở giai đoạn tăng trưởng vỗ béo (Miller, 2012).
Ngoài ra, các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến hiệu quả thức ăn. Vật nuôi được nuôi trong một môi trường có nhiệt độ ở trên hoặc dưới vùng nhiệt độ trung bình của chúng có thể có tỷ lệ chuyển hóa thức ăn kém. Tình trạng sức khỏe của vật nuôi cũng có thể làm thay đổi hiệu quả thức ăn và tỷ lệ tăng trưởng, cũng như di truyền và gánh nặng vi sinh vật từ môi trường.
Theo http://channuoivietnam.com