Đánh giá tình hình ô nhiễm nước thải sau công trình khí sinh học
Trong thời gian qua, các công trình khí sinh học (KSH) đã được sử dụng rộng rãi như một giải pháp về môi trường đối với chăn nuôi. Một số nghiên cứu cho thấy, mặc dù hầm khí sinh học được vận hành đúng quy trình nhưng nước thải sau biogas vẫn còn chứa các tác nhân gây bệnh, và hàm lượng BOD, COD còn cao do hầm khí sinh học không xử lý triệt để được.

Cho đến nay, vẫn chưa có nghiên cứu nào đánh giá tổng thể hiện trạng hoạt động và mức độ ô nhiễm nước thải sau công trình KSH, cũng như mô hình kiểm nghiệm giải pháp kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu suất xử lý công trình KSH. Với mục tiêu nâng cao hiệu suất xử lý chất thải công trình KSH nhằm giảm ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi, góp phần phát triển chăn nuôi bền vững, TS. Nguyễn Thành Trung và các cộng sự tại Viện Chăn nuôi đã tiến hành thực hiện nhiệm vụ môi trường: “Đánh giá tình hình ô nhiễm nước thải sau công trình khí sinh học (KSH) và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu suất xử lý của công trình KSH” trong thời gian từ năm 2018 – 2019.
Các tác giả đã tiến hành điều tra những nông hộ chăn nuôi lợn có công trình khí sinh học tại 3 miền gồm 06 tỉnh đại diện như: miền Bắc (Hà Nội, Thái Bình), miền Trung (Bình Định, Quảng Nam), miền Nam (Sóc Trăng, Tiền Giang) trong khoảng thời gian từ tháng 9 – 11/2018.
Kết quả điều tra về hiện trạng hoạt động của công trình KSH cho thấy, cơ cấu đàn lợn khác nhau khá rõ rệt giữa các địa phương. Số lượng lợn nuôi/nông hộ cao nhất ở Tiền Giang (45,2 con), tiếp theo là Quảng Nam (36,3 con), Bình Định (35,7 con), Thái Bình (32,2 con) và Hà Nội (29,4 con); Sóc Trăng có số lượng lợn nuôi /nông hộ là thấp nhất (25,6 con). Phương thức làm mát chủ yếu cũng tương đối khác biệt giữa các địa phương điều tra. Hộ chăn nuôi lợn tại các tỉnh miền Bắc và miền Trung (Hà Nội, Thái Bình, Bình Định và Quảng Nam) làm mát cho lợn bằng cách tắm (51-56%) và dùng bể nước nông ở cuối chuồng (25 – 34%). Trong khi đó, hộ chăn nuôi lợn ở Tiền Giang và Sóc Trăng chủ yếu làm mát lợn bằng cách tắm (42 – 44%) và phương pháp tổng hợp gồm: tắm, trồng cây xanh làm mát mái chuồng nuôi, lợp mái bằng vật liệu cách nhiệt (lá dừa nước) và dùng quạt. Phần lớn công trình KSH là hầm xây gạch theo thiết kế KT (KT1 và KT2) và composite; thể tích bể dao động từ 10,8 – 13,1 m3. Thời gian lưu chất thải trong công trình KSH dao động từ 11,7 – 19,4 ngày. Thời gian lưu lâu nhất ở Hà Nội (19,4 ngày), tiếp theo là Thái Bình: 18,1 ngày, Bình Định: 13,1 ngày, Sóc Trăng: 15,2 ngày, Quảng Nam: 11,8 ngày và Tiền Giang: 11,4 ngày. Chất thải sau công trình KSH được sử dụng làm phân bón, thức ăn cho cá khoảng 34% số hộ có công trình KSH, 27% sử dụng một phần làm phân bón và 39% là xả ra môi trường.
Kết quả điều tra về hiện trạng ô nhiễm sau công trình KSH cho thấy, công trình KSH ở Sóc Trăng có nồng độ khí CH4 cao nhất (61,5 ppm), tiếp theo là Tiền Giang: 60,2 ppm, Hà Nội: 60,0 ppm, Quảng Nam: 59,6 ppm, Bình Định: 59,1 ppm và Thái Bình 58,9 ppm, mặc dù không có sự sai khác về mặt thống kê; Nhiệt độ nước thải và giá trị pH sau công trình KSH cao hơn trước khi vào công trình; Hiệu suất xử lý TSS từ 80,9 – 86,5%; Hiệu suất xử lý COD và BOD5 có khuynh hướng giảm khi thời gian lưu chất thải giảm; Hiệu quả xử lý N tổng số từ 17,6 – 30,2%; P tổng số từ 12,3 – 18,0%. Nước thải sau công trình KSH có hàm lượng BOD5, COD, coliform còn cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần; Nồng độ BOD5 vượt 4,57 lần cho phép, COD vượt 2,75 lần, tổng chất rắn lơ lửng (TSS) vượt 2,28 lần, và coliform vượt 56 lần. /.
(Theo mard.gov.vn)