CHI CỤC CHĂN NUÔI THÚ Y BÌNH ĐỊNH

Bệnh Viêm da nổi cục trên trâu, bò và tình hình dịch bệnh ở nước ta

CNTY Bình Định - 11/03/2021 1052 lượt xem

1. Giới thiệu bệnh

Bệnh Viêm da nổi cục (tên tiếng Anh là Lumpy Skin Disease, viết tắt là LSD), còn được gọi là bệnh Da sần, là bệnh truyền nhiễm do một loại vi rút thuộc họ Poxviridae gây ra trên trâu, bò. Vi rút viêm da nổi cục (VDNC) không lây nhiễm, gây bệnh trên người.

Hình: Bò bị bệnh VDNC

1.1. Đặc điểm của vi rút gây bệnh

– Thuộc họ Poxviridae, chi Capripoxvirus, cùng chi với vi rút gây bệnh Đậu trên dê, cừu.

– Vi rút VDNC rất ổn định, tồn tại lâu ngoài môi trường, đặc biệt là ở dạng vảy khô; tồn tại trong các nốt da hoại tử trên 33 ngày, trong các lớp vảy khô lên đến 35 ngày và ít nhất 18 ngày trong da phơi khô.

– Bị tiêu diệt ở nhiệt độ 55oC trong 2 giờ, 65oC trong 30 phút. Vi rút có thể được hồi phục từ những nốt sần trên da được giữ ở nhiệt độ -80oC trong 10 năm và dịch nuôi cấy mô nhiễm vi rút được bảo quản ở nhiệt độ 4oC trong 6 tháng.

– Vi rút nhạy cảm với môi trường pH kiềm hoặc axit; có thể tồn tại ở môi trường pH = 6,6 – 8,6 trong 5 ngày ở nhiệt độ 37oC.

– Vi rút nhạy cảm với ánh sáng mặt trời và chất tẩy rửa có chứa dung môi lipid, nhưng trong điều kiện môi trường tối và ẩm ướt, ví dụ như chuồng trại bị ô nhiễm, vi rút có thể tồn tại trong nhiều tháng.

– Hóa chất sử dụng để diệt vi rút VDNC bao gồm ether (20%), chloroform, formalin (1%), phenol (2% trong 15 phút), sodium hypochlorite (2 – 3%), hợp chất iodine (pha loãng 1:33), Virkon (2%), hợp chất amoni bậc bốn (0,5%) và một số chất tẩy.

1.2. Đặc điểm dịch tễ

– Bệnh VDNC lầu tiên được phát hiện và mô tả tại Zambia vào năm 1929, sau đó dịch bệnh đã lây lan và lưu hành ở hầu khắp các châu lục. Đến nay, bệnh VDNC là dịch bệnh địa phương tại hầu hết các nước Châu Phi. Từ năm 2012, bệnh đã lây lan nhanh sang khu vực Trung Đông, Đông Nam Châu Âu, Ban-căng, biên giới Á – Âu, Nga và Kazzakhstan. Bệnh VDNC đã và đang xảy ra trên diện rộng tại Thổ Nhĩ Kỳ, khi có tới 131 ổ dịch được ghi nhận trong năm 2019.  Khu vực Tây Á và Trung Á, bệnh được ghi nhận lần đầu tiên vào tháng 8/2019 tại Ấn Độ, sau đó bệnh được ghi nhận tại Bangladesh vào tháng 9/2019. Tại Trung Quốc, ổ dịch đầu tiên được ghi nhận vào tháng 8/2019 tại khu vực Tân Cương, đặc biệt vào tháng 7/2020 tại tỉnh Quảng Tây đã ghi nhận 5 ổ dịch bệnh VDNC (chỉ cách tỉnh Cao Bằng khoảng 200 km); tính đến ngày 13/9/2020, tổng số đã phát hiện 14 ổ dịch bệnh VDNC tại nước này.

– Động vật mẫn cảm: Trâu, bò. Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh: 10 – 20%; Tỷ lệ chết: 1 – 5%. Thời gian ủ bệnh: khoảng 4 – 14 ngày.

– Bệnh thường xảy ra theo mùa, chủ yếu vào những tháng có thời tiết ấm, khi côn trùng hoạt động mạnh và phong phú nhất, gây thiệt hại về năng suất do sản lượng sữa giảm mạnh, giảm khả năng sinh sản, sảy thai, tổn thương da, giảm tăng trọng, gia súc có thể chết, gây tổn thất về kinh tế do hạn chế vận chuyển và thương mại. 

– Các nốt sần và vảy da chứa lượng vi rút VDNC tương đối cao. Vi rút có thể được phân lập từ những bệnh phẩm này trong 35 ngày và có thể lâu hơn. Vi rút có thể được phân lập từ máu, nước bọt, dịch tiết ở mắt, mũi và tinh dịch.

– Ở gia súc khỏi bệnh lâm sàng, vi rút có thể tồn tại đến 6 tháng, có thể bài thải hoặc thông qua các loại véc tơ làm lây lan dịch bệnh.

– Đường truyền lây chủ yếu qua côn trùng đốt như muỗi, ruồi, ve; bệnh cũng có thể lây truyền do vận chuyển trâu, bò mang mầm bệnh, sử dụng chung máng uống, khu vực cho ăn, sữa, tinh dịch và qua tiếp xúc trực tiếp.

Sơ đồ minh họa đường truyền lây của vi rút VDNC

Kiểm soát, tiêu diệt các vật chủ trung gian là yếu tố quan trọng để kiểm soát được bệnh VDNC.

1.3. Triệu chứng, bệnh tích

– Trâu, bò mắc bệnh thường có các biểu hiện : Sốt cao, có thể trên 41°C, bỏ ăn, suy nhược và gầy yếu; Giảm khả năng tiết sữa rõ rệt ở gia súc đang cho con bú ; Viêm mũi, viêm kết mạc và tiết nhiều nước bọt ; Sưng hạch bạch huyết bề mặt (hạch trước vai, hạch sau đùi).

– Hình thành các nốt sần có đường kính từ 2 – 5 cm, đặc biệt là ở da đầu, cổ, chân, bầu vú, cơ quan sinh dục và đáy chậu trong vòng 48 giờ sau khi bắt đầu phản ứng sốt. Các nốt sần này có hình tròn, chắc và nhô cao trên da, mô dưới da và đôi khi cả các cơ bên dưới. Các nốt sần lớn có thể bị hoại tử và cuối cùng là xơ hóa và tồn tại trong vài tháng; để lại các vết sẹo có thể tồn tại vĩnh viễn.

– Các mụn nước, vết hoại tử và vết loét có thể xuất hiện ở màng nhầy của miệng và đường tiêu hóa cũng như trong khí quản và phổi.  Chân và các bộ phận vùng bụng khác của cơ thể, như bao da, ức, bìu và âm hộ, có thể bị tiết dịch, khiến con vật không muốn di chuyển. – Bò đực có thể bị vô sinh vĩnh viễn hoặc tạm thời, bò mang thai có thể sảy thai và động dục trong vài tháng. Một số động vật bị bệnh không biểu hiện triệu chứng nhưng mang virus trong máu và có thể truyền bệnh cho động vật khỏe thông qua côn trùng hút máu.

1.4. Chẩn đoán bệnh

– Chẩn đoán tại thực địa dựa trên những biểu hiện như sốt và nổi cục đặc trưng trên da trâu, bò mắc bệnh.

– Lấy mẫu xét nghiệm: Mẫu da tổn thương, vảy, dịch mũi, dịch probang, máu được chống đông bằng chất EDTA. Vảy và da dễ thu mẫu và có thể không cần bảo quản trong môi trường vận chuyển để gửi đi xét nghiệm, những mẫu bệnh phẩm này có thể để trong ống lấy mẫu sạch hoặc các loại dụng cụ an toàn khác.

– Lưu ý lấy mẫu:

  • Đối với gia súc mới bị bệnh: Mẫu bệnh phẩm tối ưu cần lấy: Dịch mũi, dịch Probang, máu;
  • Đối với gia súc đã hình thành các nốt sần và vỡ: Lấy phần vảy, u vỡ; dịch mũi, dịch probang; máu.

1.5. Phòng bệnh

– Chủ động theo dõi, giám sát để kịp thời phát hiện sớm các trường hợp trâu, bò mắc bệnh, tiêu hủy trâu, bò mắc bệnh, tiêm phòng cho trâu, bò, vệ sinh, tiêu độc khử trùng và tiêu diệt vật chủ trung gian truyền bệnh tại khu vực chuồng nuôi.

– Hiện nay, trên thế giới có khoảng 10 loại vắc xin phòng bệnh Viêm da nổi cục của các nhà sản xuất tại các nước Nam Phi, Morocco, Thổ Nhĩ Kỳ, Liên bang Nga, Kenya, Ethiopia,….

– Tùy diễn biến tình hình dịch bệnh thực tế tại địa phương, quyết định việc sử dụng vắc xin Lumpyvac (đã được đánh giá sau tiêm phòng tại các thời điểm 28, 35 và 42 ngày) để tiêm phòng khẩn cấp phòng bệnh VDNC cho đàn trâu, bò thuộc diện tiêm phòng (Bộ Nông nghiệp và PTNT sẽ có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn sử dụng các vắc xin LumpyShied và Mevac LSD khi có kết quả đánh giá sau tiêm phòng tại các thời điểm 35, 42 ngày).

– Ngoài ra, còn nhiều loại vắc xin phòng bệnh Đậu dê, Đậu cừu của các nhà sản xuất tại nhiều nước (bao gồm: Việt Nam, Jordan, Ấn Độ,….) có thể sử dụng để phòng bệnh vì chủng vi rút gây bệnh VDNC cùng họ với vi rút gây bệnh Đậu dê, có mức tương đồng kháng nguyên và gen di truyền trên 95%; các tổ chức quốc tế như FAO, OIE và các nước (như Trung Quốc, Đài Loan, Ấn Độ, Jordan, và nhiều nước khác) cũng đã sử dụng vắc xin Đậu dê để tiêm (với liều cao gấp 5-10 lần) cho đàn gia súc và có hiệu quả phòng được bệnh VDNC.

2. Tình hình dịch bệnh VDNC ở nước ta

Từ đầu tháng 10/2020, bệnh Viêm da nổi cục (VDNC) trên trâu, bò lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam và đến nay đã xảy ra tại 163 xã, thuộc 65 huyện của 18 tỉnh, thành phố với tổng số gia súc mắc bệnh 2.240 con, 267 con chết và tiêu hủy. Hiện nay, cả nước có 44 ổ dịch tại 18 huyện của 08 tỉnh bao gồm: Nam Định, Bắc Cạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Trị và Thanh Hóa. Thời gian qua, dịch bệnh lây lan chủ yếu do các véc tơ truyền bệnh (ruồi, muỗi, ve, mòng,…), vận chuyển, giết mổ gia súc bệnh, mang mầm bệnh, nhiều địa phương chưa có vắc xin, chưa tổ chức tiêm phòng cho đàn gia súc. Do đó, nguy cơ dịch bệnh tiếp tục lây lan nhanh, ở phạm vi rộng là rất cao.

Để tổ chức kiểm soát bệnh VDNC, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn rất cụ thể và tổ chức nhiều hội nghị triển khai các giải pháp phòng, chống dịch bệnh VDNC; chỉ đạo Cục Thú y và các doanh nghiệp tổ chức nhập khẩu khẩn cấp vắc xin phòng bệnh VDNC theo quy định của Luật thú y, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật thú y (hiện nay đã có Công ty Cổ phần kinh doanh thuốc thú y AMAVET nhập khẩu, cung ứng vắc xin Lumpyvac của Thổ Nhĩ Kỳ và LumpyShied của Jordan; Công ty TNHH thú y Đông Phương nhập khẩu, cung ứng vắc xin Mevac LSD của Ai Cập); chỉ đạo tổ chức triển khai tiêm phòng thí điểm vắc xin phòng bệnh VDNC tại một số địa phương của 8 tỉnh đã có dịch bệnh VDNC, các địa phương nguy cơ cao và một số trang trại bò sữa.

Kết quả, theo báo cáo của các địa phương đã tổ chức tiêm phòng được 27.226 con trâu, bò; gia súc đã được tiêm phòng không mắc bệnh VDNC; trâu, bò được tiêm vắc xin Lumpyvac của Thổ Nhĩ Kỳ sau 28, 35 và 42 ngày đã có kháng thể kháng vi rút VDNC và đã đánh giá được sau hơn 42 ngày (trâu bò được tiêm các vắc xin LumpyShied và Mevac LSD đang được lấy mẫu đánh giá sau tiêm phòng 28 ngày và cần tiếp tục theo dõi, lấy mẫu đánh giá vào các thời điểm sau 35, 42 ngày)./.

Lê Phú Bình, Nguyễn Văn Tâm

(Chi cục CN&TY Bình Định)