Độ mặn ảnh hưởng như thế nào đến EHP ở tôm thẻ chân trắng
Theo nghiên cứu mới của Đại học Arizona, độ mặn của các ao nuôi tôm đã được chứng minh là có tác động lớn đến sự phổ biến của vi khuẩn Enterocytozoon hepatopenaei (EHP).

Bằng chứng giai thoại cho thấy EHP phổ biến hơn trong các ao nuôi thương phẩm tôm thẻ chân trắng (Lito penaeus vannamei) nơi có độ mặn cao -> 15 phần nghìn (ppt) – so với các ao nuôi thương phẩm có độ mặn thấp (<5 ppt). Xét tôm thẻ chân trắng là loài euryhaline, nghiên cứu quan tâm đến việc tìm hiểu xem EHP có lây nhiễm cho loài ở độ mặn cao (30 ppt), trung bình (15 ppt) và thấp (2 ppt) với tỷ lệ như nhau hay không.
Bệnh nghiêm trọng nhất đối với nuôi tôm
Bệnh vi khuẩn gan tụy (HPM) do vi khuẩn microsporidium EHP gây ra, có lẽ là bệnh nghiêm trọng nhất trong nuôi tôm hiện nay. EHP đã được báo cáo ở các nước sản xuất tôm ở châu Á – bao gồm Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Việt Nam, Thái Lan và Ấn Độ – cũng như ở Venezuela. Các dấu hiệu lâm sàng chính của EHP là chậm phát triển, dẫn đến thay đổi kích thước gia tăng. Trong giai đoạn tiến triển của bệnh, tôm nhiễm EHP thường có biểu hiện mềm vỏ và chết. Trong một số trường hợp, sự đồng nhiễm của EHP và Vibriospp. có liên quan đến sự phát triển của hội chứng phân trắng (WFS). Các tổn thương mô bệnh học do EHP gây ra trong gan tụy hiển thị các cơ quan chứa ái kiềm không thường xuyên / thường xuyên trong tế bào chất, có hoặc không có sự hiện diện của bào tử.
Nuôi tôm ở các độ mặn khác nhau
EHP đã được báo cáo trong các ao nuôi tôm có nhiều độ mặn (dưới 5 ppt và lên đến 55 ppt). Ở các nước đã tìm thấy EHP, tỷ lệ mắc bệnh ở các ao có độ mặn cao hơn so với độ mặn thấp, nhưng không có nghiên cứu nào chứng minh mối quan hệ có thể có giữa độ mặn và mức độ nhiễm EHP. Mục tiêu của nghiên cứu là so sánh khả năng lây nhiễm của EHP ở ba độ mặn khác nhau trong điều kiện thí nghiệm bằng cách sử dụng dây chỉ phân làm chất cấy.
Gây nhiễm cho tôm thẻ chân trắng ở ba độ mặn khác nhau
Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) không có mầm bệnh (SPF) cụ thể đã được sử dụng để thử nghiệm với EHP. Tôm được duy trì ở ba độ mặn khác nhau – 2 ppt, 15 ppt và 30 ppt. Đối với mỗi thử thách thử nghiệm, các bể 90-L được đổ đầy nước biển nhân tạo tương ứng với ba mức độ mặn với hai lần lặp lại cho mỗi lần xử lý độ mặn. Nhiệt độ được đặt ở 25°C (± 0,6). Toàn bộ thí nghiệm được lặp lại hai lần.
Thử nghiệm
Các dâyphân từ tôm nhiễm EHP đã biết được sử dụng làm chất cấy cho cả hai thử nghiệm. Chúng được thu thập hàng ngày bằng cách hút bể chứa bị nhiễm EHP. Một phần nhỏ được bảo quản trong 95% ethanol để xác định tải lượng EHP, trong khi phần còn lại được sử dụng làm chất cấy để thử thách tôm được duy trì ở các độ mặn khác nhau. Một giờ sau thử thách, tôm được cho ăn hàng ngày với khối lượng thức ăn viên thương mại tương đương với 2% sinh khối trong bể. Chế độ tiêm và cho ăn này được thiết kế để cho phép động vật tiêu thụ chất cấy có chứa các dây phân nhiễm EHP trước khi tiêu thụ chế độ ăn viên. Các thử thách kéo dài 25 ngày.
Kết quả và ý nghĩa
Trong nghiên cứu, nhóm nghiên cứu có thể gây nhiễm trùng thực nghiệm bằng cách sử dụng dây phân làm chất cấy. Các dây phân, được sử dụng như một nguồn vi khuẩn EHP, đủ để gây nhiễm trùng cho tôm được duy trì ở ba độ mặn khác nhau. Khả năng lây nhiễm EHP ở tôm nuôi ở độ mặn 2 ppt, 15 ppt và 30 ppt đã được xác nhận bằng PCR và mô bệnh học. Kết quả của nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nhiễm EHP ở mức 30 ppt cao hơn ở mức 2 ppt và 15 ppt.
Nghiên cứu này đã chứng minh rằng phân có thể được sử dụng làm chất cấy EHP trong thử nghiệm và đồng thời, phân lây nhiễm có thể là nguồn ô nhiễm trong các trại giống và ao nuôi thương phẩm. Lợi dụng hành vi ăn hại của động vật giáp xác và sự hiện diện của thức ăn không tiêu, bao gồm 25-50% chất phân, nhóm nghiên cứu có thể cung cấp các bào tử truyền nhiễm EHP cho tôm và thực hiện các thử nghiệm. Sử dụng phân thu thập từ tôm đã được xác nhận nhiễm EHP, thiết kế thử nghiệm mô phỏng sự lây truyền EHP theo chiều ngang, như được quan sát ở cấp trang trại. Mô bệnh học của mô gan tụy được phân tích từ tôm thử nghiệm được nuôi thử nghiệm ở ba độ mặn khác nhau cho thấy các tổn thương đặc trưng của nhiễm EHP bao gồm sự hiện diện của plasmodium trong tế bào chất của các tế bào biểu mô bị nhiễm bệnh,
Litopenaeus vannamei là một loài euryhaline được nuôi trong nhiều điều kiện khác nhau bao gồm độ mặn cao (30 ppt), môi trường cửa sông (10-20 ppt) và độ mặn thấp (2 ppt). Nghiên cứu này xác nhận EHP có thể gây nhiễm trùng ở nhiều độ mặn, dao động từ 2 ppt đến 30 ppt. Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm EHP tăng ở độ mặn 30 ppt (tỷ lệ hiện mắc 87,5%), so với 15 ppt (tỷ lệ lưu hành 30,0%) và độ mặn 2 ppt (tỷ lệ lưu hành 33,3%).
Sự khác biệt về mức độ nghiêm trọng của nhiễm EHP ở ba độ mặn khác nhau có lẽ là do ảnh hưởng khác nhau của độ mặn đối với sự nảy mầm của bào tử. Một trong những giai đoạn quan trọng trong quá trình nảy mầm của bào tử là sự gia tăng áp suất thẩm thấu trong bào tử. Sự khác biệt về độ mặn dẫn đến môi trường nhược trương ở 2 ppt và 15 ppt so với môi trường ưu trương ở 30 ppt. Có thể dung dịch ưu trương tăng cường sự nảy mầm của bào tử bằng cách tăng quá trình hoạt hóa của bào tử.
Ứng dụng thực tế
Trong các ao nuôi thương phẩm ở một số khu vực lưu hành EHP ở Châu Á, điều kiện độ mặn được tìm thấy rất khác nhau. Ví dụ, ở Ấn Độ có những vùng nuôi tôm với độ mặn cao và thấp. Điều thú vị là tỷ lệ nhiễm EHP dường như thấp hơn ở độ mặn thấp hơn (dưới 5 ppt), như được quan sát trong một cuộc khảo sát về bệnh tôm ở Andhra Pradesh vào năm 2019 (Aranguren và các đồng nghiệp, chưa được công bố).
Các điều kiện tương tự cũng được ghi nhận tại hai khu vực nuôi tôm chính ở Venezuela – hồ Maracaibo, nơi có độ mặn khoảng 4-6 ppt, và ở bang Falcon nơi có độ mặn dao động từ 36-40 ppt. Ở Venezuela, việc nuôi tôm chưa được tích hợp hoàn toàn, và việc di chuyển của ấu trùng nauplii và hậu ấu trùng giữa khu vực hồ Falcon và Maracaibo là một thực tế phổ biến. Bất chấp sự di chuyển của hậu ấu trùng và / hoặc tôm bố mẹ có khả năng nhiễm EHP giữa hai khu vực này, cho đến nay EHP chỉ được phát hiện ở khu vực Falcon nơi có độ mặn cao. Tại hồ Maracaibo, nơi có độ mặn thấp, EHP vẫn chưa được báo cáo. Có thể sự vắng mặt của EHP trong các trang trại nuôi tôm ở hồ Maracaibo có thể là do sự khác biệt về độ mặn của nước.
Kết luận
Nghiên cứu này đã chứng minh rằng các chuỗi phân từ tôm nhiễm EHP đã biết có thể được sử dụng như một nguồn vi khuẩn đáng tin cậy để tiến hành các ca nhiễm EHP thí nghiệm qua đường phân-miệng. Nhiễm trùng EHP có thể xảy ra trong nước có độ mặn thấp tới 2 ppt, mặc dù tỷ lệ nhiễm và mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng cao hơn ở độ mặn 30 ppt. Những phát hiện này có ý nghĩa trong việc quản lý dịch bệnh ở các khu vực lưu hành EHP.
Ở những vùng nuôi tôm mà EHP là một vấn đề vệ sinh lớn, người nuôi có thể giảm thiểu nguy cơ nhiễm EHP bằng cách thả tôm giống không có EHP, thực hiện quy trình khử trùng kỹ lưỡng ao nuôi thương phẩm trước khi thả tôm giống và bằng cách sử dụng lớp lót để cách ly PL với đáy ao tự nhiên. Ngoài ra, có thể nuôi tôm ở độ mặn thấp hơn (~ 15ppt) để giảm thiểu mức độ nghiêm trọng của nhiễm EHP.
H.T
(Theo mard.org.vn)