Hiệu quả của vắc-xin LMLM trên lợn ở Đông Nam Á
Bệnh Lở Mồm Long Móng (LMLM) là một bệnh do vi rút rất dễ lây lan ảnh hưởng đến các loài thuộc bộ Artiodac-tylae. Bệnh có biểu hiện là mọc mụn nước toàn thân cấp tính với các tổn thương phát triển trên các vùng da bị cọ sát. Mặc dù tỷ lệ tử vong ở động vật trưởng thành thấp, bệnh LMLM làm giảm nghiêm trọng sản lượng chăn nuôi và dẫn đến hạn chế thương mại nghiêm trọng. Vi rút LMLM (VLMLM) bao gồm bảy serotype trong đó có hai type gây ra các đợt bùng phát dịch thường xuyên ở Đông Nam Á (ĐNA), cụ thể là týp O và A (một đợt bùng phát riêng lẻ của Asia-1 đã được báo cáo ở Myanmar trong năm 2017 sau 10 năm vắng bóng) . Có giới hạn phản ứng chéo giữa bảy serotype và đôi khi trong cùng serotype dẫn đến bảo hộ chéo không hoàn toàn khi vắc-xin chứa các phân nhóm khác nhau và các biến chủng của cùng một serotype.

Vi rút LMLM serotype O thuộc topotype serotype O/SEA (dòng Mya-98 và Cam-94), topotype O/ME-SA (dòng PanAsia, dòng phụ Pan-Asia-2 và dòng Ind-2001), topotype O/Cathay và serotype A (topotype ASIA; chủng SEA-97) đã được xác định ở ĐNA. Trong những năm gần đây, các vi rút thuộc nhóm O/SEA/Mya-98, O/ME-SA/Ind2001 và một biến chủng của A/Asia/SEA-97 (Lopburi 2012 ) đã thay thế các chủng trước đây trong khu vực.
Lợn được coi là một nguy cơ gây lây lan bệnh lớn nhất trong thời gian bùng phát dịch bệnh do chúng thải ra một lượng lớn vi rút . Các loại vắc-xin có hiệu lực cao dùng trong trường hợp khẩn cấp trước đây đã được chứng minh là có thể bảo vệ lợn trong vòng bốn ngày kể từ ngày tiêm vắc-xin và việc tiêm phòng cho lợn trước khi thử thách cường độc có thể làm giảm đáng kể hiệu giá và thời gian thải vi rút LMLM . Tuy nhiên, trong hầu hết các nghiên cứu, công cường độc với một loại vi rút tương đồng, trong đó chủng vắc-xin và vi rút thử thách cường độc rất giống nhau – không như trong thực địa vi rút lưu hành có thể rất khác về mặt kháng nguyên với các chủng vắc-xin. Ngoài ra, người ta cũng biết rằng vi rút LMLM thay đổi nhanh chóng, có thể dẫn đến việc vắc-xin không bảo hộ được bệnh lâm sàng. Do đó, điều quan trọng là phải liên tục theo dõi các loại vi rút đang lưu hành trong khu vực và đánh giá các loại vắc-xin đang được sử dụng để đảm bảo chúng sẽ bảo hộ chống lại bệnh dịch.
Trung tâm Chuẩn bị ứng phó Dịch bệnh Úc (trước đây được gọi là Phòng thí nghiệm thú y Úc) đã hợp tác với các phòng thí nghiệm ở ĐNA tiến hành các thử nghiệm đánh giá tương đồng kháng nguyên vắc-xin và so sánh di truyền để ước tính khả năng bảo vệ của vắc-xin đang được sử dụng trong khu vực. Nghiên cứu tập trung vào các týp huyết thanh O và A, do sự phổ biến của chúng ở ĐNA. Dữ liệu đánh giá tương đồng vắc-xin trong phòng thí nghiệm với serotype O cho thấy các chủng vắc-xin được sử dụng bởi Boehringer Ingelheim (BI), cụ thể là O 3039, có khả năng bảo vệ tốt hơn O1 Manisa đối với các chủng phân lập lưu hành gần đây ở ĐNA. Tuy nhiên, BI khuyến nghị nên kết hợp cả hai chủng vắc-xin, có khả năng bảo vệ chống lại hầu hết các loại vi rút. Phân tích các vi rút kiểu type A cho thấy sự biến đổi di truyền lớn hơn, và có sự xuất hiện của các cụm vi rút mới. Một trong hai chủng vắc-xin thuộc serotype A, A22/IRQ hoặc A/MAY/97, có thể bảo hộ chống lại vi rút trong khu vực, nhưng cần phải đánh giá thêm để xem loại nào sẽ phù hợp nhất.
Trong khi dữ liệu tương đồng vắc-xin được tạo ra trong phòng thí nghiệm là những chỉ số rất hữu ích về việc liệu vắc-xin có bảo vệ được hay không, các nghiên cứu về nơi lợnb được tiêm vắc-xin và sau đó thử thách cường độc với vi rút sống cung cấp thêm niềm tin vào hiệu quả của vắc-xin. Điều quan trọng nữa là phải xác định sớm thời gian sau khi tiêm phòng đủ miễn dịch để hỗ trợ việc kiểm soát các đợt bùng phát dịch. Trong các nghiên cứu riêng biệt, vắc-xin O1 Manisa và A Malaysia 97 lần lượt được thử nghiệm chống lại vi rút ĐNA serotype O và A bằng cách tiêm phòng cho lợn những loại vắc-xin có chứa lượng kháng nguyên cao (>6PD /liều) và công cường độc chúng vào thời điểm ban đầu sau khi tiêm phòng. Ngoài ra, các thí nghiệm được thiết kế để xác định liệu việc tiêm phòng có làm giảm sự bài thải vi rút hay không, qua đó hạn chế rủi ro đối với các trại chăn nuôi với số lượng lớn động vật. Khi thử thách cường độc với vi rút sống, sử dụng cách tiêm vào chỏm gót chân lợn, khả năng bảo hộ chống bệnh lâm sàng vượt quá 75% sau tiêm phòng 4 và 7 ngày. Mặc dù phát hiện lượng nhỏ vi rút lây nhiễm và RNA vi rút trong một số bệnh phẩm từ lợn tiếp xúc trong thí nghiệm serotype O (sử dụng phương pháp phân lập vi rút và realtime RT-PCR), không có con lợn nào tiếp xúc gián tiếp với lợn bị nhiễm bệnh phát sinh bệnh lâm sàng. Đối với cả hai serotype, kết quả RT-qPCR của tăm bông ngoáy mũi và miệng cho thấy sự bài thải vi rút đã giảm và trong thời gian ngắn hơn ở nhóm vắc-xin so với nhóm không được tiêm.
Trong 10 năm qua, các vi rút thuộc serotype A ở ĐNA đã phân chia thành một số cụm di truyền và kháng nguyên riêng biệt. Các biến chủng từ Thái Lan vào năm 2013 đã được chứng minh là kém phù hợp với các loại vắc-xin serotype A được sử dụng trong khu vực. Trong nghiên cứu gần đây của chúng tôi đã chỉ ra rằng vắc-xin kết hợp với chủng A Malaysia 97 và A22 IRQ 64 có hiệu quả trong việc ngăn ngừa bệnh toàn thân ở lợn khi thử thách với một biến thể của chủng A/Asia/SEA-97 (LopBuri 2012) mặc dù không thể phát hiện các kháng thể trung hòa.
Chúng tôi kết luận rằng các chủng vắc-xin thương mại nêu trên sẽ bảo vệ chống lại bệnh lâm sàng cho một số lượng lớn lợn khi vắc-xin có chứa >6PD /liều. Vì các con vật đã được công cường độc sớm trong phản ứng miễn dịch của chúng, nên không phải tất cả các con lợn được tiêm phòng đều được bảo vệ khỏi các dấu hiệu lâm sàng trong các nghiên cứu của chúng tôi; tuy nhiên, lượng vi rút / bộ gen vi rút được bài thải và thời gian bài thải đã giảm. Những con lợn chưa được tiêm phòng ở gần, nhưng tiếp xúc gián tiếp không phát bệnh. Có thể hiệu quả của các loại vắc-xin này sẽ được cải thiện nếu lợn được thử thách ở 21 – 28 ngày sau tiêm phòng khi khả năng miễn dịch đạt đỉnh cao. Vì đây là những thử nghiệm thực nghiệm với ít lợn, chúng tôi lưu ý rằng cần cẩn thận để ngoại suy kết quả cho các trại lợn lớn.
BSTY. Wilna Vosloo
BSTY. Nagendrakumar Singanallur Balasubramanian
(Theo Bản tin Thú y cập nhật tháng 3/2021)