CHI CỤC CHĂN NUÔI THÚ Y BÌNH ĐỊNH

TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI CẢ NƯỚC NĂM 2024

CNTY Bình Định - 21/01/2025 3910 lượt xem

TÌNH HÌNH CHUNG

Theo báo cáo của Cục Chăn nuôi – Bộ NN&PTNT, sản xuất chăn nuôi cả nước năm 2024 trong điều kiện có những thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen; trong đó có yếu tố tác động mạnh của biến động thị trường, của thời tiết nắng nóng gay gắt, hạn hán, mưa bão tại các địa phương vùng Tây Nguyên, miền Trung, xâm nhập mặn tại các tỉnh, thành phố phía Nam, Bão số 3 (Yagi), dịch bệnh… gây thiệt hại nặng cho Ngành… Trong bối cảnh đó, chăn nuôi vẫn phát triển, bảo đảm nguồn cung cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Chăn nuôi nông hộ, nhỏ lẻ giảm và chuyển dần sang chăn nuôi tập trung, quy mô trang trại; liên kết sản xuất giữa các nông hộ hoặc giữa nông hộ với doanh nghiệp ngày càng được quan tâm. Chăn nuôi gia súc, gia cầm theo chuỗi giá trị, chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh và việc ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao trong chăn nuôi được thúc đẩy; mô hình chăn nuôi theo hướng hữu cơ bước đầu đạt hiệu quả kinh tế cao đang dần được phổ biến, nhân rộng. Nhờ đó sản xuất chăn nuôi được duy trì phát triển tốt, tổng đàn vật nuôi chính đều tăng, ngoại trừ đàn trâu và bò giảm do diện tích chăn thả thu hẹp, nhu cầu về sức kéo giảm mạnh và hiệu quả kinh tế không cao.

Theo số liệu ước tính của Tổng cục Thống kê và tổng hợp báo cáo của Bộ Nông nghiệp và PTNT, tính tại thời điểm cuối tháng 12/2024, đàn lợn khoảng 31,08 triệu con (bao gồm khoảng 4,48 triệu lợn con chưa tách mẹ), tăng khoảng 3,3% (đạt 97% so với kế hoạch năm 2024) – nếu không tính lợn con chưa tách mẹ theo số liệu của TCTK, đàn lợn đạt 26,59 triệu con, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 2023; đàn gia cầm khoảng 575,1 triệu con (đạt 100,4% so với kế hoạch năm 2024), tăng 2,8% so với cùng kỳ năm 2023. Chăn nuôi trâu, bò tiếp tục xu hướng giảm, trong đó tổng đàn trâu khoảng 2,07 triệu con (đạt 94,2% so với kế hoạch năm 2024), giảm khoảng 3,0%, đàn bò khoảng 6,29 triệu con (đạt 96,9% so với kế hoạch năm 2024), giảm 0,6% so với cùng kỳ năm 2023), lý do chăn nuôi trâu bò chủ yếu nông hộ nhỏ lẻ, chưa có nhiều doang nghiệp đầu tư quy mô lớn nên khi diện tích chăn thả tự nhiên tại nhiều địa phương dần bị thu hẹp, cơ giới hóa nông nghiệp không cần sử dụng để cày kéo, giá trâu bò thịt biến động, giá thấp kéo dài, đầu tư ban đầu cao, chu kỳ sản xuất dài…

Sản lượng thịt hơi các loại ước đạt 8,26 triệu tấn, tăng 5,4% so với năm 2023; trong đó thịt lợn hơi 5,16 triệu tấn, tăng 6,6%; thịt gia cầm hơi 2,43 triệu tấn, tăng 5,4. Sản lượng sữa tươi 1,23 triệu tấn, tăng 6,0%; trứng 20,2 tỷ quả, tăng 5,0%.

Sản lượng TACN công nghiệp năm 2024 ước đạt 21,5 triệu tấn (tăng 3,4% so với năm 2023), trong đó TACN cho lợn chiếm 55,3% (11,9 triệu tấn), TACN cho gia cầm chiếm 40,9% (8,8 triệu tấn), còn lại 3,7% là thức ăn cho vật nuôi khác.

Bên cạnh những thuận lợi, thì hoạt động sản xuất TACN vẫn phụ thuộc lớn và nguyên liệu nhập khẩu (trên 65% nguyên liệu thô, trên 90% thức ăn bổ sung); ảnh hưởng khi có biến động Tỷ giá USD, ảnh hưởng của xung đột địa chính trị ở một số khu vực, chi phí logistic vẫn ở mức cao (tăng 15-20% so với trước đợt dịch Covid-19 và chưa có dấu hiệu giảm); chi phí marketing, phân phối sản phẩm TACN trong bối cảnh liên kết theo chuỗi trong sản xuất chăn nuôi yếu, bị gián đoạn, thiếu bền vững; TACN được phân phối qua trung gian làm tăng thêm chi phí khi đến tay người chăn nuôi…

Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 533,6 triệu USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2023 (trong đó có 122,9 triệu USD là sữa và sản phẩm từ sữa, 172,1 triệu USD thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật). Năm 2024, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 1.700 con lợn sống (tương đương 662 nghìn USD), giảm 78%; 1.200 con bò sống, giảm 18% so với cùng kỳ năm 2023 (Nguồn: AgroMonitor). Ngoài ra, Việt Nam đã xuất khẩu được 1,05 tỷ USD thức ăn gia súc và nguyên liệu (đầu vào cho hoạt động sản xuất chăn nuôi), giảm 12,1% so với năm 2023.

Tổng kim ngạch nhập khẩu lĩnh vực chăn nuôi là 3.741 triệu USD, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm 2023 (trong đó có 1.139,5 triệu USD là sữa và sản phẩm từ sữa, 1.718 triệu USD từ thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật. Trong đó, nhập khẩu giống: trong năm 2024, Việt Nam đã nhập khẩu 4.088 con lợn giống cấp cụ, kỵ (trong đó gồm 3.256 lợn cái giống và 832 lợn đực giống), gần 3,08 triệu con gà giống bố, mẹ (Nguồn: AgroMonitor). Nhập khẩu trâu, bò: Việt Nam đã nhập 185,4 nghìn con trâu, bò (tăng 45% so với cùng kỳ năm 2023), trong đó 96% là trâu, bò thịt (Nguồn: AgroMonitor). Nhập khẩu nguyên liệu TACN: Ước tính năm 2024, nước ta nhập khẩu gần 22,4 triệu tấn nguyên liệu TACN, giá trị tương đương 7,7 tỷ USD.

Về thú y, trong năm 2024, ngành thú y đã kiểm soát hiệu quả nhiều dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm trên phạm vi cả nước. Cụ thể, số ổ dịch cúm gia cầm giảm 23,8% và dịch tai xanh giảm tới 60%. Về công tác xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh, cả nước hiện có 3.750 cơ sở, vùng chăn nuôi được cấp giấy chứng nhận tại 60 tỉnh, thành phố. Trong đó, có 1.269 cơ sở an toàn dịch bệnh trên gia cầm, 2.430 cơ sở trên gia súc và 51 vùng an toàn dịch bệnh dại. Hiện nay, cả nước có 440 cơ sở giết mổ động vật tập trung và 24.858 cơ sở giết mổ nhỏ lẻ. 

THỊ TRƯỜNG CHĂN NUÔI

– Giá lợn thịt hơi xuất chuồng: giai đoạn đầu năm ổn định xung quanh mức 52-60 nghìn đồng/kg, bắt đầu tăng từ tháng 5, 6 năm 2024, tăng mạnh vào tháng 6 (xu hướng chung của đa số quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới), có thời điểm giá lợn hơi lên trên mức 70 nghìn đồng/kg, sau đó giảm xuống mức từ 64-66 nghìn đồng/kg trong tháng 7,8. Đến tháng 9/2024, giá tăng trở lại từ 2.000-3.000 đồng/kg. Hiện nay, giá bán tại trại khu vực tư nhân trên cả nước bình quân dao động từ 65-67 nghìn đồng/kg và giá tại trại của các công ty lớn cao hơn 1.000-2.000 đồng/kg; cùng với việc giá nguyên liệu thức ăn và thức ăn thành phẩm giảm thì người chăn nuôi đang có lãi, tạo động lực cho người nuôi tái đàn, đây là những yếu tố đã tác động tích cực đến tốc độ tăng trưởng đàn lợn. Dự báo trong các tháng đầu năm 2025 (nhất là, thời điểm các dịp Lễ, Tết diễn ra và thời điểm sau Tết Nguyên đán 2025), giá lợn hơi trên các vùng miền sẽ tiếp tục theo xu hướng tăng khoảng 3-5% so với mức giá hiện tại.

– Gà lông màu nuôi công nghiệp đạt cao nhất tại tháng 02/2024 (50 nghìn đồng/kg), sau đó giảm nhẹ vào tháng 3,4,5 và giảm mạnh vào tháng 6. Đến cuối tháng 6 năm 2024 giá gà công nghiệp lông màu chỉ còn 43 nghìn đồng/kg. Trong các tháng quý III/2024, giá dao động từ 38-48,8 nghìn đồng/kg và trong Quý IV giá theo xu hướng tăng cho đến cuối năm 2024. Thời điểm hiện tại, giá bình quân trên 50 nghìn đồng/kg.

– Gà lông trắng giá bán sản phẩm thấp hơn giá thành diễn ra trong suốt 6 tháng đầu năm 2024. Tháng 01/2024 giá trung bình là 26 nghìn đồng/kg và có xu hướng tăng, đạt cao nhất ở tháng 02 (32 nghìn đồng/kg), đến thời điểm cuối Quý II/2024 giá giảm nhẹ và duy trì ở mức 30 nghìn đồng/kg. Trong quý III/2024, giá gà trắng trung bình từ 28-34 nghìn đồng/kg. Trong quý IV/2024, giá dao động lên xuống không ổn định, có thời điểm, giá có sự phân cách rõ rệt, các tỉnh khu vực phía Bắc và Bắc Trung Bộ dao động từ 42-44 nghìn đồng/kg, khu vực Nam Trung Bộ dao động từ 34-40 nghìn đồng/kg, còn giá tại khu vực phía Nam và Tây Nguyên dao động từ 31-32 nghìn đồng/kg. Hiện tại, giá miền Trung, miền Nam dao động quanh mức 32-34 nghìn đồng/kg, giá khu vực miền Bắc dao động quanh mức 39-40 nghìn đồng/kg.

– Giá trứng gia cầm được duy trì ổn định, dao động quanh mức: trứng gà 1.800-2.100 đông/quả; trứng vịt 2.200-2.800 đồng/quả. Từ cuối tháng 6 giá trứng gà tăng nhẹ lên mức 2.100-2.150 đồng/quả, trong khi giá trứng vịt có xu hướng giảm nhẹ. Các tháng cuối năm, giá có dao động lên xuống tùy thời điểm và khu vực, tuy nhiên không có biến động nhiều.

Một số tác động từ những biến động về giá sản phẩm chăn nuôi đối với hoạt động sản xuất chăn nuôi: (i) Khi giá giống tăng, giá sản phẩm chăn nuôi tăng sẽ tác động đến tâm lý người sản xuất trong nước, người chăn nuôi có xu hướng chờ giá tăng tiếp mới bán, có thể gây thiếu hụt cục bộ và tăng giá thời điểm; (ii) Không loại trừ trường hợp một số doanh nghiệp có thị phần lớn có thể hạn chế xuất bán lợn giống, đầu cơ, găm hàng, neo giá cao để hưởng lợi; (iii) Riêng chăn nuôi lợn, giá thành sản xuất dao động từ 47-52 nghìn đồng/kg (giữa khu vực doanh nghiệp, trang trại vừa, nông hộ), thì lợi nhuận trong chăn nuôi lợn đang là khá tốt.

Tính bình quân năm 2024, giá hầu hết nguyên liệu TACN có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Ngô giảm nhiều nhất (giảm 15,7%), Khô dầu đậu tương giảm 10,6%, Cám gạo chiết ly giảm 7,9%, DDGS giảm 18,2%, Lysin HCL giảm 11,5%, giá TACN thành phẩm TĂ HH lợn thịt (vỗ béo từ 60 kg trở lên) giảm 6,9%, TĂHH gà thịt (lông màu) giảm 5,0%, TĂ HH gà thịt (lông trắng) giảm 5,3%. Giá chi tiết một số sản phẩm chính như sau:

Bảng 1. Giá bình quân một số nguyên liệu và TACN thành phẩm

TTNguyên liệu/TĂCNNăm 2024Tăng/giảm so với năm 2023
1Ngô hạt6.785-15,7
2Khô dầu đậu tương12.969-10,6
3Cám gạo chiết ly5.701-7,9
4DDGS7.519-18,2
5TĂHH lợn thịt giai đoạn vỗ béo đến xuất chuồng12.230-6,9
6TĂHH gà lông màu giai đoạn trước khi xuất chuồng12.064-5,0
7TĂHH gà lông trắng giai đoạn trước khi xuất chuồng12.730-5,3

* Nguồn: Cục Chăn nuôi tổng hợp báo cáo của doanh nghiệp sản xuất, kình doanh TACN

Nhận định trong thời gian tới do nguồn cung nguyên liệu ổn định và giá giảm nên giá TACN thành phẩm trong nước sẽ tiếp tục theo xu hướng giảm từ nay tới nửa đầu năm 2025. Tuy nhiên, biến động thị trường thế giới cũng như hoạt động trong nước vẫn chưa đủ mạnh để trở lại mức giá thời điểm trước dịch Covid-19.

Theo https://channuoivietnam.com