CHI CỤC CHĂN NUÔI THÚ Y BÌNH ĐỊNH

Tình hình chăn nuôi cả nước tháng 9 năm 2024

CNTY Bình Định - 22/10/2024 1040 lượt xem

TÌNH HÌNH CHUNG (cập nhật 15/10/2024)

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, trong tháng 9, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 31 và mưa lớn kéo dài trên diện rộng tại hầu hết khu vực Bắc Bộ, gây thiệt hại lớn về trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Hiện nay các địa phương đang khẩn trương khắc phục hậu quả của bão và mưa lũ, nhanh chóng khôi phục sản xuất, ổn định đời sống người dân nơi bị ảnh hưởng.

Trong tháng, cơn bão số 3 đã gây thiệt hại khá lớn đối với hoạt động chăn nuôi, nhiều con gia súc và gia cầm bị cuốn trôi. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 9 tăng khoảng 2,5% so với cùng thời điểm năm 2023; đàn gia cầm tăng khoảng 2,2% so với cùng thời điểm năm 2023.

– Chăn nuôi trâu, bò:  Chăn nuôi trâu, bò tiếp tục xu hướng giảm tổng đàn do hiệu quả kinh tế không cao.Theo số liệu ước tính của TCTK, tổng số trâu của cả nước thời điểm cuối tháng 9/2024 giảm 3,6% so với cùng thời điểm năm 2023; tổng số bò giảm 0,4%, đàn bò sữa giảm 0,9%. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng 9 tháng ước tính đạt 90,5 nghìn tấn, giảm 0,1% so với cùng kỳ năm trước (trong đó quý III ước đạt 28,4 nghìn tấn, giảm 0,4%); sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng 9 tháng ước đạt 378,1 nghìn tấn, tăng 1,3% (quý III ước đạt 122,2 nghìn tấn, tăng 1,5%); sản lượng sữa bò tươi 9 tháng ước đạt 942,3 nghìn tấn, tăng 5,6% (quý III ước đạt 298,6 nghìn tấn, tăng 5,8%).

– Chăn nuôi lợn: Giá thịt lợn hơi có xu hướng tăng nhưng do dịch tả lợn châu Phi còn diễn biến phức tạp tại một số địa phương nên đã ảnh hưởng đến sản xuất của các hộ chăn nuôi. Các doanh nghiệp và chuỗi liên kết sản xuất có xu hướng mở rộng sản xuất khi giá sản phẩm đầu ra tăng. Theo số liệu ước tính của TCTK, tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 9/2024 tăng 2,5% so với cùng thời điểm năm 2023; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 9 tháng ước đạt 3835,0 nghìn tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm 2023 (trong đó quý III ước đạt 1287,6 nghìn tấn, tăng 4,5%).

– Chăn nuôi gia cầm: Mặc dù cơn bão số 3 đã gây thiệt hại khá lớn đối với hoạt động chăn nuôi gia cầm tại các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng nhưng nhìn chung đàn gia cầm cả nước vẫn phát triển ổn định, khu vực doanh nghiệp phát triển tốt, dịch bệnh được kiểm soát, chỉ phát sinh một số ổ dịch nhỏ lẻ. Theo số liệu ước tính của TCTK, tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 9/2024 tăng 2,2% so với cùng thời điểm năm 2023; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 9 tháng ước đạt 1821,6 nghìn tấn, tăng 4,9% (trong đó quý III ước đạt 603,9 nghìn tấn, tăng 3,8%); sản lượng trứng gia cầm 9 tháng ước đạt 14,9 tỷ quả, tăng 5,0% so với cùng kỳ năm 2023 (quý III ước đạt 4,9 tỷ quả, tăng 4,7%).

– Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi: 

– Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi: Theo Bộ NN&PTNT, 9 tháng đầu năm, Việt Nam đã chi khoảng 1,24 tỷ USD nhập khẩu thịt, phụ phẩm động vật, tăng hơn 19% so với cùng kỳ năm trước. nguồn thịt và sản phẩm từ thịt được nhập khẩu chủ yếu từ Ấn Độ, Mỹ, Nga, Đức và Hàn Quốc.

– Giá trị nhập khẩu sản phẩm thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu: 

– Thú y: Theo báo cáo của Cục Thú y, tính đến ngày 28/9/2024, tình hình dịch bệnh đàn gia súc, gia cầm trên cả nước cụ thể như sau:

Dịch Cúm gia cầm: (CGC): Trong tháng 9, phát sinh 01 ổ dịch CGC tại tỉnh Bình Phước; số gia cầm mắc bệnh là 61.217 con, số chết và tiêu hủy là 67.227 con. Trong Quý III, phát sinh 02 ổ dịch CGC A/H5N1 tại 02 tỉnh Tiền Giang và Bình Phước. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 09 ổ dịch CGC chủng A/H5N1, số ổ dịch giảm 47,05% so với cùng kỳ năm 2023) tại 08 tỉnh, thành phố; số gia cầm mắc bệnh là 73.559 con (tăng 2,64 lần so với cùng kỳ năm trước), số gia cầm chết và tiêu hủy là 80.885 con (tăng 2,39 lần so với cùng kỳ năm trước).

Hiện nay, cả nước có 01 ổ dịch tại tỉnh Bình Phước chưa qua 21 ngày.

+ Dịch lợn tai xanh: Trong tháng 9, không phát sinh dịch bệnh Tai xanh. Trong Quý III, phát sinh 02 ổ dịch tại 02 tỉnh Bạc Liêu và Đồng Tháp, số lợn mắc bệnh là 08 con, số lợn chết và tiêu hủy là 40 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 02 ổ dịch bệnh Tai xanh tại 02 tỉnh Bạc Liêu và Đồng Tháp. Số lợn mắc bệnh là 08 con, số lợn tiêu huỷ là 40 con (so với cùng kỳ năm trước, số ổ dịch giảm 50%, số lợn chết và tiêu hủy giảm 87,98%).

Hiện nay, không có ổ dịch bệnh Tai xanh chưa qua 21 ngày.

+ Dịch lở mồm long móng: Trong tháng 9, phát sinh 03 ổ dịch LMLM tại 02 tỉnh Khánh Hoà và Quảng Trị; số gia súc mắc bệnh là 40 con, số con chết và tiêu huỷ là 01 con. Trong Quý III, phát sinh 15 ổ dịch LMLM tại 06 tỉnh; số gia súc mắc bệnh là 638 con, số con chết và tiêu huỷ là 27 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước đã xảy ra 60 ổ dịch LMLM (tăng 2,6 lần so với cùng kỳ năm trước) tại 19 tỉnh, thành phố; số gia súc mắc bệnh là 2.075 con (tăng 2,75 lần so với cùng kỳ năm trước), số gia súc chết và tiêu hủy là 152 con.

Hiện nay, cả nước có 04 ổ dịch LMLM tại tỉnh Quảng Trị chưa qua 21 ngày.

+ Dịch tả lợn châu Phi: Trong tháng 9, phát sinh 71 ổ dịch tại 22 tỉnh, thành phố; số lợn mắc bệnh là 1.203 con, số chết và tiêu hủy là 1.200 con. Trong Quý III, phát sinh 450 ổ dịch tại 36 tỉnh, thành phố; số lợn mắc bệnh là 13.654 con, số chết và tiêu hủy là 13.775 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 1.085 ổ dịch (tăng 2,51 lần so với cùng kỳ năm trước) tại 47 tỉnh, thành phố; số lợn mắc bệnh là 66.423 con, số lợn chết và tiêu hủy là 67.273 con (tăng 2,99 lần so với cùng kỳ năm trước).

Hiện nay, cả nước có 156 ổ dịch tại 65 huyện của 24 tỉnh (Hải Phòng, Ninh Bình, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kan, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Lai Châu, Điện Biên, Hòa Bình, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Ninh Thuận, Bình Phước, Bà Rịa Vũng Tàu, Tiền Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng) chưa qua 21 ngày.

+ Dịch viêm da nổi cục: Trong tháng 9, phát sinh 02 ổ dịch tại 02 tỉnh Tiền Giang và Cao Bằng; số gia súc mắc bệnh là 06 con, số gia súc chết và tiêu hủy là 01 con. Trong Quý III, phát sinh 28 ổ dịch tại 12 tỉnh; số trâu, bò mắc bệnh là 98 con, số trâu bò chết và tiêu hủy là 19 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 103 ổ dịch (tăng 01 ổ dịch so với cùng kỳ năm trước) tại 18 tỉnh, thành phố; số gia súc mắc bệnh là 553 con (tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước), số gia súc chết và tiêu hủy là 119 con.

Hiện nay, cả nước có 07 ổ dịch tại 04 tỉnh (Cao Bằng, Đăk Lăk, Bình Phước, Tiền Giang) chưa qua 21 ngày.

THỊ TRƯỜNG CHĂN NUÔI

+ Lợn hơi:

Giá thịt lợn hơi bình quân tháng 9/2024 trên cả nước biến động so với tháng trước, có xu hướng tăng về cuối tháng. Theo khảo sát từ các cộng tác viên tại địa phương, cụ thể:

Tại khu vực miền Bắc, giá lợn hơi các tỉnh Hưng Yên bình quân ở mức 66.000 đồng/kg (+1.000 đồng/kg), Nam Định 66.667 đồng/kg (+1.667 đồng/kg), các tỉnh thành còn lại duy trì ở mức 65.000-67.000 đồng/kg. Tuy nhiên, giá lợn có xu hướng tăng về cuối tháng 9, hiện dao động ở mức 69.000-71.000 đồng/kg.

Khu vực miền Trung – Tây Nguyên, tăng 1.000 đồng/kg tại các tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi và Bình Định. Theo đó, giá lợn hơi bình quân tại Quảng Bình hiện có giá 65.000 đồng/kg, cao thứ hai khu vực, bằng giá với Lâm Đồng. Hai tỉnh Thanh Hoá và Nghệ An vẫn dao dịch ở mức giá 66.000 đồng/kg. Tại các địa phương còn lại, thương lái thu mua trong khoảng 63.000-64.000 đồng/kg. Tính đến đầu tuần thứ 4 của tháng 9 giá lợn hơi dao động trong khoảng 64.000-69.000 đồng/kg, cao nhất là Thanh Hóa ở mức 69.000 đồng/kg, Nghệ An là 68.000 đồng/kg.

Tại khu vực miền Nam, giá lợn hơi đang dao động trong khoảng 63.000 – 65.000 đồng/kg. Cụ thể, giá lợn hơi tại Bình Phước bình quân 65.500 đồng/kg, Vĩnh Long 63.000 đồng/kg (+1.556 đồng/kg), các tỉnh Bạc Liêu: 62.000 đồng/kg (-2.833 đồng/kg), Tiền Giang: 62.250 đồng/kg (+68 đồng/kg). Tính đến đầu tuần thứ 4 của tháng 9 giá lợn hơi dao động trong khoảng 64.000 – 67.000 đồng/kg, cao nhất ở Đồng Nai, Bình Dương ở mức 67.000 đồng/kg.

Tại sàn giao dịch Chicago Mercantile Exchange (CME), trong tháng 9/2024, giá đóng cửa mặt hàng thịt lợn giao kỳ hạn dao động trong khoảng 78,4 US cent/lb đến 82,5 US cent/lb và đạt mức bình quân 80,2 US cent/lb, giảm 3,3% so với cùng kỳ năm 2023. Trong giai đoạn 9 tháng đầu năm 2024, giá mặt hàng thịt lợn giao dịch trên sàn CME đạt mức thấp nhất 65,3 US cent/lb, cao nhất 98,6 US cent/lb và đạt mức bình quân 86,1 US cent/lb, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm 2023.

+ Gà:

Giá gà công nghiệp tại các tỉnh miền Bắc tháng 9/2024: Do Ảnh hưởng của cơn bão số 3 khiến lượng gà ngập úng xả bán gia tăng, kéo giá gà lông (còn khỏe) tại trại giảm xuống quanh mức 27.000 đồng/kg – 30.000 đồng/kg. Đối với gà lông màu, do nhu cầu tích trữ thực phẩm của bà con tăng cao trong đợt bão lũ, giá gà lông màu lên 42.000 đồng/kg với gà ta lai CP 80 ngày và 48.000 đồng/kg – 56.000 đồng/kg đối với gà công ty nuôi 100 ngày. Ngoài ra, lượng lớn gà chết do ngập nước cũng được xả bán với giá rất thấp cũng làm ảnh hưởng đến lượng gà nuôi ngắn ngày.

Tại miền Nam, giá gà công nghiệp tại các tỉnh Đồng Nai, Vĩnh Long giao dịch phổ biến ở mức 30.000 đồng – 38.000 đồng/kg (mức tăng so với tháng trước từ 1.375 -2.222 đồng/kg). Đối với gà lông màu, gà công ty nuôi 100 ngày, nguồn cung gà già còn nhiều, nhu cầu tiêu thụ chậm kéo theo giao dịch phổ biến giảm nhẹ, theo ghi nhận, giá gà lông màu tại Đồng Nai ở mức 43.750 đồng/kg (-2.000 đồng/kg)

+ Trứng:

Giá thu mua trứng gà ta tại Đồng Nai không có biến động nhiều so với tháng trước, hiện tại, giá thu mua trứng gà công nghiệp ở mức 21.625 đồng/chục (+125 đồng/chục), giá thu mua trứng gà ta 28.125 đồng/chục (+125 đồng/chục).

+ Thức ăn gia súc và nguyên liệu:

Thị trường nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tháng 09/2024 ghi nhận không có sự biến động giá so với tháng trước đối với các loại thức ăn cho lợn. Tại Đồng Nai, giá bán buôn các loại thức ăn cho lợn thịt từ 30kg – 60kg và loại từ 60kg đến xuất chuồng vẫn ổn định giá ở mức 8.520 đồng/kg, thức ăn cho lợn con từ lúc tập ăn đến 15kg: 15.540 đồng/kg; các loại thức ăn cho cá cũng cùng chung xu hướng không có sự biến động, thức ăn cho cá chẽm UP 28.500 đồng/kg, thức ăn cho cá hiệu Cargill 14.000 đồng/kg. Trái với sự ổn định về giá của các nguyên liệu thức ăn cho lợn, cá, giá bán buôn thức ăn cho tôm thẻ nhãn hiệu UP tăng 1.750 đồng/kg, giao dịch ở mức 34.500 đồng/kg. Đối với thị trường nguyên liệu cám gạo và ngô bột có sự biến động tăng giảm theo từng loại; cụ thể: Tại Bình Phước, giá bán lẻ cám gạo giảm 397 đồng/kg so với tháng trước, giá giao dịch hiện đang ghi nhận ở mức 10.517 đồng/kg, giá ngô hạt thường giảm nhẹ 10 đồng/kg, giao dịch ở mức 9.533 đồng/kg, giá ngô bột 10.450 đồng/kg (tăng 36 đồng/kg), ngô hạt thường tại Hưng Yên có giá bán buôn 8.000 đồng/kg (tăng 1.000 đồng/kg so với tháng trước). Riêng giá giống ngô hạt địa phương tại Đồng Nai giảm 2.367 đồng/kg, giao dịch ở mức 4.733 đồng/kg.

Theo https://channuoivietnam.com